Phía sau các FTA
Chỉ với 3 câu hỏi, ông Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch Uỷ ban Tư vấn chính sách thương mại quốc tế, đã khuấy động cuộc tranh luận và giãi bày bức xúc của các đại biểu tham dự hội thảo “Không gian chính sách hỗ trợ các ngành kinh tế: Còn lại gì sau các Hiệp định thương mại tự do (FTA)”, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổ chức ngày 28/5. Đây cũng là lần đầu tiên một cuộc đối thoại công khai chỉ xoay quanh mặt trái của hội nhập kinh tế được tổ chức, gợi mở ra vấn đề cái giá phải trả cho hội nhập.
Quá nôn nóng hội nhập mà các cơ quan quản lý bỏ qua quyền lợi chính đáng của DN |
Chính sách vừa thiếu lại vừa yếu
3 câu hỏi của ông Huỳnh, liên quan đến sự phát triển của các ngành hàng sau khi ký các FTA là: Không gian chính sách cho các ngành hàng đã có chưa? Nếu có thì có hiệu quả không? Sắp tới DN cần có chính sách gì để hỗ trợ?
“Ngành bán lẻ hiện nay hầu như không được hỗ trợ gì. Nghe có vẻ sốc nhưng thực tế là như thế”, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam trả lời một cách rành rọt. Bà Loan điểm mặt các chính sách khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm… đều đã có, song lại chưa có chính sách khuyến thương. Duy nhất có Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam được ký vào năm 2014, thì đến nay thực thi vẫn vô cùng chậm trễ.
Bà cũng nhắc lại một vấn đề sống còn với các DN bán lẻ là mặt bằng đất đai, hiện đang chịu sự cạnh tranh không cân sức với DN FDI. Mặc dù trên danh nghĩa là không có sự phân biệt đối xử, song DN FDI luôn được ưu tiên vị trí đất vàng khi đến đầu tư tại các địa phương. Trong khi đó DN trong nước phải chật vật tìm địa điểm với mức giá thuê cao ngất ngưởng lên tới 20-25% tổng doanh thu!
Ông Nguyễn Anh Dương, chuyên gia nghiên cứu dự án NPS của Tổ chức Action Aid dẫn chứng nghiên cứu của đơn vị này về tác động của hội nhập đến ngành công nghiệp điện tử và thực phẩm chế biến. Theo đó xu hướng chung là không gian chính sách để hỗ trợ DN trong nước của hai ngành này đã thu hẹp tương đối nhiều.
Với ngành công nghiệp điện tử, khả năng sử dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan đã giảm đáng kể; hỗ trợ tài chính cũng có một số vấn đề bất cập; chính sách đầu tư giảm dần do nới lỏng về sở hữu nước ngoài tại DN… Điều này phần nào lý giải cho thực trạng ngành công nghiệp điện tử Việt Nam tuy có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, đóng góp tích cực cho xuất khẩu, thuộc top 10 ngành có giá trị gia tăng cao nhất, song “chiến công” lại chủ yếu thuộc về DN FDI.
Ngành chế biến thực phẩm cũng ở trong tình trạng tương tự khi các dư địa chính sách thuế đã thu hẹp hơn; các biện pháp phi thuế vẫn còn song rất yếu ớt; hỗ trợ tín dụng hạn chế hơn; chính sách đầu tư cũng thu hẹp do tăng quyền cho DN FDI. Bên cạnh đó, ngành này cũng gặp không ít vấn đề như chi phí xuất khẩu cao, hạ tầng cứng và mềm hạn chế, rủi ro về tiêu chuẩn hàng hoá…
Hội nhập càng sâu rộng, không gian chính sách hỗ trợ sẽ càng bị thu hẹp lại. Đây không phải là vấn đề của riêng ngành nào. Tuy nhiên yêu cầu đặt ra là không gian đã hẹp đi thì các loại chính sách có thể sử dụng để hỗ trợ cho các ngành kinh tế phải tinh hơn, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO, VCCI đặt vấn đề. Song bà Trang cũng lo ngại, dường như kể cả khi chưa có sự thu hẹp thì các chính sách hỗ trợ cho các ngành hàng cũng không nhiều. Và nếu có thì cũng chưa hiệu quả lắm.
Làm gì khi “sự đã rồi”?
“Hội nhập đã quá sâu, giống như nhà đã mở toang cửa rồi, không có cách nào để bảo vệ sản xuất trong nước nữa”, một ý kiến dấy lên đầy lo ngại. Tuy nhiên, bà Trang nhanh chóng trấn an, không phải là nhà đã mở hết cửa và có những cửa tuy mở nhưng hiện nay vẫn có then cài, có chốt chặn, vấn đề là chúng ta chưa sử dụng được.
Bà phân tích, sau khi gia nhập WTO chúng ta có các biện pháp không được sử dụng nữa, chẳng hạn ưu đãi đầu tư. Về mặt trợ cấp, thì việc sử dụng các trợ cấp tính bằng tiền đã bị co hẹp. Mặc dù vậy vẫn có các trợ cấp được phép, liên quan đến nông nghiệp, phát triển đào tạo lao động, nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ… là hoàn toàn chính đáng. Ngoài ra các vấn đề liên quan tới vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng vệ thương mại… vẫn còn và hoàn toàn có thể áp dụng. Song hiểu biết của cả cơ quan quản lý lẫn DN về các biện pháp này vẫn còn quá ít ỏi.
Chưa kể nhiều biện pháp hỗ trợ chỉ có trên danh nghĩa. Có những trường hợp Nhà nước không làm gì đã là hỗ trợ DN. Chẳng hạn không đặt ra điều kiện kinh doanh vô lý, không làm khó DN, đã là hỗ trợ rồi.
Một mối nguy khác, mà theo các chuyên gia của VCCI, còn nguy hiểm hơn việc không tận dụng được chính sách. Đó là vì quá nôn nóng hội nhập mà các cơ quan quản lý bỏ qua quyền lợi chính đáng của DN. Ví dụ điển hình là trong đàm phán ngành thực phẩm, chúng ta cam kết mức thuế quan tương đối cao để bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, sau khi ký FTA chúng ta lại mở cửa sớm hơn cả cam kết. Nguy hiểm ở đây rất rõ, nhiều cơ quan coi mở cửa sớm là thành tích, mà chưa lưu tâm đến niềm tin vào chính sách, vào hỗ trợ của Chính phủ từ phía DN. Một vấn đề tưởng cũ, nhưng được các chuyên gia nhấn mạnh, đó là cam kết mở cửa phải phù hợp với năng lực sản xuất. Nếu không Việt Nam sẽ vô tình từ bỏ các quyền lợi chính đáng của mình.