Quy hoạch vùng yếu vì thiếu tầm nhìn quốc gia
Đã có hơn 19.800 quy hoạch từ cấp quốc gia, vùng, tỉnh, thành phố, cho đến xã, phường được lập trong giai đoạn 2011-2020, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên con số này chỉ cho thấy sự dàn trải, chồng chéo trong công tác lập quy hoạch, khi hiệu quả mang lại rất hạn chế, đặc biệt là công tác quy hoạch vùng, chủ yếu chỉ là phân chia theo địa lý, mà thiếu sự phối hợp trong điều hành phát triển.
Một buổi công bố quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm kinh tế Bắc bộ |
Phối hợp trên văn bản là chính
GS. TS. Nguyễn Quang Thái, Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học kinh tế Việt Nam đã chỉ ra nguyên nhân của kết quả trên là việc chỉ đạo điều hành công tác lập quy hoạch rất thiếu tính tập trung thống nhất.
Quy hoạch các vùng được lập nhưng ít ý nghĩa chỉ đạo cụ thể, chỉ coi như cộng dồn các tỉnh trong vùng, dẫn tới các chính sách tuy là phối hợp trên một số văn bản, nhưng hành động rất thiếu phối hợp (ví dụ chính sách phát triển công nghiệp, chính sách thu hút FDI…). Chính sách và quy hoạch vùng lại được lập tách biệt về thời gian, nên các chính sách và quy hoạch này thường thiếu ăn khớp với nhau.
Theo GS. TS. Nguyễn Quang Thái, bài học từ Hàn Quốc trước hết là đã lập quy hoạch vùng một cách thống nhất, có trọng điểm rõ ràng, phân chia nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu từng thời kỳ. Trong quy hoạch phát triển thống nhất này, mỗi vùng đã tận dụng và lựa chọn được những ưu tiên phát triển rất thú vị và phù hợp lợi thế của vùng.
Chẳng hạn Vùng kinh tế Jeju tập trung cho du lịch, vùng Thủ đô lại đi vào kinh tế tri thức, công nghiệp IT; có vùng phát triển công nghệ sinh học, dược phẩm, năng lượng mới… Bài học về phát triển vùng cũng được quốc gia này thực hiện trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và tác động của nền kinh tế dựa trên tri thức. Hàn Quốc đã rất nhanh nhạy trong điều chỉnh chính sách kinh tế nói chung, kết hợp cả chính sách bên trong và chính sách quốc tế.
Giới thiệu các bài học kinh nghiệm về lập quy hoạch vùng tại Hội thảo “Chia sẻ tri thức của Hàn Quốc với Việt Nam năm 2014”, TS. Kim Jeong Ho, Trường Chính sách và quản lý công (KDI) đã tóm tắt tổng quan các chính sách vùng của Hàn Quốc từ những năm 1960 đến nay.
Theo đó, trong giai đoạn những năm 1960 Hàn Quốc hỗ trợ đầy đủ cho hiện đại hoá kinh tế và nâng cấp cơ cấu ngành công nghiệp, tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ. Trong những năm 1970, chú trọng sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên lãnh thổ để hỗ trợ các ngành công nghiệp nặng/hoá dầu theo định hướng xuất khẩu, và cung cấp cơ sở hạ tầng liên quan.
Trong những năm 1980, quốc gia này chuyển sang kiểm soát vùng thủ đô, phân cấp và bảo vệ môi trường. Chiến lược của những năm 1990 là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và mở rộng cơ sở lãnh thổ ra bên ngoài trong thời đại toàn cầu hoá.
Tới đầu những năm 2000, phát triển cân bằng liên vùng thông qua hệ thống đổi mới vùng và phân cấp chức năng các cơ quan Chính phủ trên toàn quốc. Trong những năm 2010 hướng tới thúc đẩy công nghiệp xanh và tăng trưởng xanh trên tất cả các vùng…
Tất cả các bước phát triển này, theo TS. Kim Jeong Ho là được thiết lập dựa trên Quy hoạch phát triển lãnh thổ quốc gia toàn diện. Đây là văn bản chính sách ở cấp cao nhất, mô tả các chính sách về không gian, kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng, quản lý nguồn lực, môi trường… Quy hoạch này đóng vai trò như một phương tiện thông báo cho người dân về những gì đã diễn ra trong lãnh thổ Hàn Quốc và những gì sẽ diễn ra trong tương lai.
Nhờ đó, Chính phủ và người dân có một bản kế hoạch tổng thể cho sự phát triển có trật tự của lãnh thổ quốc gia và giữ gìn môi trường sống tự nhiên. Đồng thời quy hoạch cũng đưa ra tầm nhìn và chiến lược phát triển cụ thể của vùng, và một tập hợp các hướng dẫn cho kế hoạch cấp tỉnh, đô thị và vùng, cũng như các chính sách kinh tế và ngành.
Nút thắt là quyết tâm chính trị
Với những kinh nghiệm phát triển thực tiễn như vậy, các chuyên gia Hàn Quốc đưa ra lời khuyên, Việt Nam nên cân nhắc lựa chọn phương pháp lập quy hoạch phát triển lãnh thổ quốc gia toàn diện giống như Hàn Quốc. Bên cạnh đó, cần tổ chức hiệp hội chính quyền địa phương. Hiện hiệp hội ở quốc gia này có khoảng 60 chính quyền địa phương là thành viên.
Đây là một phần của cơ chế quản lý chính quyền cấp vùng. Với mô hình này, có thể tạo ra cơ quan hay cơ chế điều phối giúp duy trì đối thoại giữa các đơn vị địa phương. Việt Nam nên thiết lập cơ chế quản lý, điều phối ở cấp vùng như vậy, các chuyên gia Hàn Quốc lưu ý.
Việt Nam cũng cần định nghĩa rõ hơn về vùng, bởi việc tổ chức vùng phụ thuộc mục tiêu, mục đích cụ thể như bảo tồn hay phát triển kinh tế xã hội... thì việc nhận diện và xác định vùng sẽ khác nhau phụ thuộc mục đích đó. Chẳng hạn Hàn Quốc có vùng chú trọng tới bảo vệ môi trường, nguồn nước, không quá quan trọng việc phát triển kinh tế.
Theo ông Thái, Việt Nam có thể học hỏi Hàn Quốc ở kinh nghiệm quy hoạch phối hợp đồng thời. Bởi kế hoạch vùng của Việt Nam được xây dựng không đồng thời, do đó trong chính sách tổng quát có sự cân đối, nhưng do lập khác thời gian nên các tỉnh, các vùng thiếu một quan điểm xem xét thống nhất.
Về mặt không gian, với cơ chế phân cấp đến mức chia cắt, các tỉnh đều có chính sách riêng, cố làm sao để tỉnh mình phát triển mạnh mẽ, nhưng ít chú ý đến sự tương hợp vùng. Các địa phương không tận dụng được sự liên kết vùng trong tổng thể quốc gia thống nhất, không tận dụng được các lợi thế so sánh.
TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương lại chỉ ra một vấn đề khác khiến việc lập quy hoạch vùng tại Việt Nam còn thiếu hiệu quả. Đó là chúng ta còn thiếu động lực, thể chế vùng, khiến cán bộ các địa phương còn mang nặng tâm lý “thà làm vua một tỉnh còn hơn làm quan một vùng”.
Theo ông Thành là hệ thống quản lý hành chính, phân bổ ngân sách, thể chế hiện nay không chia theo vùng. Vì thiếu hệ thống động lực như vậy, dù có quy hoạch thật đẹp cũng khó có thể phối hợp tốt hơn vì không gắn với một cơ quan, con người cụ thể, đằng sau đó là quyền lợi cho họ. Để có hệ thống động lực, ông Thành nhấn mạnh, phải có cơ chế về chức năng và quyền lực, có bộ máy tương xứng với chức vụ, lương thưởng, trách nhiệm… kèm theo để bộ máy này làm việc, hoạt động được.
Cũng theo TS. Võ Trí Thành, vấn đề quy hoạch vùng có thể động chạm quyền lợi của các nhóm lợi ích, từ việc định hướng phát triển đến vấn đề phân bổ ngân sách, chia sẻ quyền lực, chia sẻ nguồn lực… cho nên kiến nghị này nói rất nhiều song không ai thật đào sâu suy nghĩ để thiết lập một sơ đồ tổ chức, chức năng, nhiệm vụ rồi tương tác với trung ương, với các địa phương.
Bên cạnh đó, phí tổn cho quá trình thiết lập lại thể chế vùng có thể cũng rất cao vì phải điều chỉnh nhiều yếu tố trong bộ máy hành chính hiện nay. “Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc nhất hiện nay chỉ là có quyết tâm làm hay không”, ông Thành kết luận.