Ra mắt sách Bắc Kỳ tạp lục: Nỗ lực hiểu người khác
Sách vừa được phát hành và giới thiệu đến độc giả tại Hà Nội.
Đừng lấy hiểu biết của hôm nay để đánh giá
Cuốn sách được thiết kế như một cẩm nang để hướng dẫn và giúp những người Pháp đến Việt Nam đầu thế kỷ XX nắm bắt đồng thời thích nghi các tập quán với thiết chế của cư dân bản địa. Henri Souvignet nêu rõ mục đích: “Sẽ hữu ích hơn cho xã hội nếu chúng tôi mang đến cho độc giả […] chiếc chìa khóa giúp họ len lỏi vào ngõ ngách trong đời sống tinh thần của người An Nam, bằng cách lĩnh hội và thẩm thấu nhanh chóng những tập tục của họ”.
Trước Henri Souvignet nhiều tác giả Việt Nam đã ghi chép và miêu tả khá rộng đời sống xứ sở. Hai người tiêu biểu của thế kỷ XVIII và XIX là Phan Huy Chú và Lê Quý Đôn. Nên TS. Mai Anh Tuấn cho rằng Bắc Kỳ tạp lục đặc sắc trước hết vì nó là cuốn sách tiếng Pháp. Việc này giải thích câu hỏi của nhiều độc giả tiếng Việt hôm nay cho rằng tại sao lại đọc những điều hiển nhiên của cuộc sống xung quanh.
Cũng đừng nên quên cuốn sách đã được viết ra cách đây hơn 100 năm nên một số thông tin và cách giải thích đã trở nên lạc hậu. “Nên đừng lấy điểm nhìn tri thức hôm nay để thấy cuốn sách không còn đúng. Mà độc giả bây giờ nên sử dụng nó như một kênh tham khảo có chọn lọc”, TS. Mai Anh Tuấn nhận xét.
Vượt lên những thiếu sót người đọc ngày hôm nay thấy được hai điểm khách quan sau. Một là tác giả đã sinh sống ở Việt Nam từ năm 1882 đến khi qua đời năm 1942. Tức ông dành 61 trên tổng số 87 năm của đời mình cho Tổ quốc chúng ta. Điều này khẳng định tấm lòng thiết tha với Việt Nam của vị linh mục. Hai là cuốn sách này cho thấy nỗ lực để tìm hiểu về một dân tộc khác. Không phải thông qua chiến tranh, áp bức mà qua con đường của tri thức.
Đối thoại văn hóa Đông - Tây
TS. Trần Trọng Dương (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) chỉ ra những nỗ lực để hiểu biết về Việt Nam của Henri Souvignet: Tác giả là người Pháp nhưng từ chối sử dụng tài liệu tham khảo bằng tiếng Pháp. Thay vào đó ông cố gắng học ngoại ngữ để đọc các tài liệu chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc ngữ.
Trong phần trình bày lịch sử Việt Nam, ông kết thúc bằng thời đại của vua Tự Đức (1847 – 1883). Và dành nhiều phê phán nặng nề cho ông vua triều Nguyễn vì bảo thủ mà gây họa mất nước. TS. Trần Trọng Dương nhận thấy luận điểm trên thái độ mang tính thực dân, một điểm hạn chế không thể khác của thời đại Henri Souvignet. Ngược lại thái độ tích cực của ông là không viết sách dựa trên các tài liệu của người Pháp về lịch sử Việt Nam. Mà khai thác triệt để bộ sử được sử dụng chính thống của triều nhà Nguyễn là Khâm định Việt sử Thông giám cương mục.
Phần viết tôn giáo cơ bản của người Việt Nam thì ông sử dụng kinh nghiệm điền dã và tham khảo các kinh điển của Phật giáo đại thừa. Tìm hiểu hôn nhân và luật pháp, ông cố gắng tìm kiếm và sử dụng tư liệu luật pháp của chính quyền đương thời. Khó nhất là phần viết về tín ngưỡng bản địa. Ông không còn cách nào khác ngoài điền dã và sưu tầm tư liệu. Vì Henri Souvignet là một trong những thế hệ người Pháp đầu tiên cố gắng tìm hiểu Việt Nam nên phải tự lực.
Vì Bắc Kỳ tạp lục bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống nhân dân Việt Nam và tác giả không thể là người hiểu biết tất cả mọi lĩnh vực nên cuốn cẩm nang này không khỏi thiết sót. Biên tập viên Đào Tiến Thi (NXB Giá dục) chỉ ra Henri Souvignet hời hợt khi viết về tín ngưỡng và tôn giáo. Đồng thời TS. Mai Anh Tuấn đánh giá Bắc Kỳ tạp lục chỉ hoàn thành một nửa công việc của một cuốn sách có tham vọng nghiên cứu. Đó là liệt kê và phân loại các hoạt động của nhân dân mà chưa đẩy vấn đề lên, đưa ra các kết luận có tính khái quát hóa cao. “Và tôi chưa thấy tính chất cấu trúc hóa của cuốn sách”.
Cuốn sách của Henri Souvignet mang tính chất giao lưu văn hóa Đông - Tây còn ở điểm nó tạo ra nhu cầu hiểu biết lại về xứ sở Việt Nam. Nó kích thích các trí thức bản địa học tập và nghiên cứu một cách bài bản để đối thoại với các tác giả châu Âu. Vì vậy con đường tiếp xúc Đông - Tây không phải bằng chiến tranh mà bằng con đường của khoa học.
Thực tế lịch sử cũng đã chứng minh điều kể trên. Nhiều thế hệ nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã xuất hiện một cách nhanh chóng - một điều kỳ diệu mà ít dân tộc làm được. Có thể kể tên: Đào Duy Anh với Việt Nam văn hóa sử cương, [tạm dịch: đề cương lịch sử của văn hóa Việt Nam], 1939 hay Nguyễn Văn Huyên với Văn minh Việt Nam, 1944. Nhiều phương pháp nghiên cứu và lý thuyết đã ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển khoa học, để nghĩ cùng và nghĩ khác các học giả người Pháp về vấn đề Việt Nam.