Rau quả “giậm chân” ở thị trường khó tính
Tín hiệu khả quan cho rau quả Việt | |
Rau quả - từ triển vọng đến thách thức |
Theo ông Nguyễn Hữu Đạt, nguyên Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu 2, trong 5 năm trở lại đây, trái cây Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường thế giới có tiêu chuẩn rất cao như Hoa Kỳ (Mỹ), Úc, Châu Âu (EU) và Nhật Bản. Thế nhưng sau từng ấy năm, vẫn không có sự tăng trưởng đáng kể về số lượng trái cây xuất khẩu đến các thị trường này, nếu không nói là có phần sụt giảm, trong khi sản lượng trái cây sản xuất hàng năm của Việt Nam vẫn tăng.
Các DN cần đa dạng hóa các sản phẩm rau quả xuất khẩu |
Nhìn vào bức tranh xuất khẩu rau quả có thể thấy trong 3 năm qua, ngành hàng trái cây đã góp mặt vào nhóm nông sản xuất khẩu “tỷ đô” của Việt Nam. Trong 8 tháng của năm 2018, giá trị xuất khẩu rau quả đạt đến 2,7 tỷ USD, tăng 14,15 so với cùng kỳ năm 2017, và đứng đầu là thị trường Trung Quốc, chiếm đến 74% thị phần và tổng giá trị xuất khẩu rau quả.
Những thị trường nhập khẩu lớn khác là Thái Lan, Hàn Quốc... Và vắng mặt những thị trường “khó tính” đã mở cửa cho rau quả Việt như Mỹ, Úc hay Nhật. Ông Nguyễn Văn Kỳ-Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (VinaFruit) cho rằng, trước khi trái cây Việt có mặt được ở những thị trường khó tính, thì sản phẩm của Thái Lan, Hàn Quốc hay Nhật Bản thuộc dòng cao cấp đã hiện diện tại đây. Trái cây Việt Nam tại những thị trường này được xem là “lính mới”, vừa ít chủng loại, lại vừa phải cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, giá cả…
Mặt khác, DN xuất khẩu Việt còn gặp khó khăn ở chi phí vận chuyển, bảo quản, xử lý chiếu xạ, kiểm dịch thực vật đắt đỏ, cũng như các rào cản nhập khẩu gắt gao nên rất khó có thể tăng thêm số lượng xuất khẩu.
Cụ thể như thị trường Mỹ, là nước nhập khẩu nhiều loại trái cây Việt Nam nhất (so với Úc, New Zealand và Nhật) với 6 loại là vải thiều, nhãn, chôm chôm, thanh long, vú sữa và xoài, nhưng số lượng là rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 3% tổng kim ngạch nhập khẩu trái cây của Mỹ.
Ở thị trường khác như EU, thì số lượng trái cây xuất khẩu của Việt Nam cũng không đáng kể, do không cạnh tranh được về giá cả, chất lượng sau thu hoạch và thời gian giao hàng, so với các nước khác. Thậm chí, nhiều quốc gia xuất khẩu trái cây ở khu vực Châu Á như Thái Lan, Philippines và Malaysia có lợi thế hơn Việt Nam, do ít bị phía EU kiểm tra, điều chỉnh yêu cầu kỹ thuật đối với nhóm hàng rau quả nhập khẩu.
Tương tự, thị trường Nhật Bản dù có nhu cầu tiêu thụ cao về các loại trái cây nhiệt đới (như chuối, thanh long, xoài và vải) nhưng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm cũng rất khắt khe (theo tiêu chuẩn EU), vì vậy trái cây Việt xuất khẩu vào Nhật cũng không thể tăng, mặc dù giá bán nhiều loại trái cây, rau Việt tại thị trường Nhật rất cao.
Theo ông Nguyễn Hữu Đạt, để đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi vào những thị trường lớn, phải mất gần 5 năm chuẩn bị các bước cụ thể từ nhà vườn, quản lý chuyên môn, công nghệ sau thu hoạch, vận chuyển đến kiểm tra chất lượng.
Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xuất nhập khẩu Vina T&T cho biết, số lượng trái cây Việt vào Mỹ không tăng được do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do phía Mỹ yêu cầu DN xuất khẩu Việt Nam phải chịu chi phí chiếu xạ, xử lý trái cây trước khi xuất và chi phí này rất cao, khó cạnh tranh với các nước xuất khẩu cùng loại trong khu vực.
Đặc biệt, các lô hàng trái cây nhập khẩu vào Mỹ đều có yêu cầu xuất trình chứng minh diện tích gieo trồng, quy trình quản lý vườn, thu hoạch, bảo quản…, trong khi một số DN đặt mua sản phẩm ở nhiều vườn nhỏ lẻ, không thể đáp ứng yêu cầu này.
Muốn thay đổi, DN cần hợp tác sâu rộng với nông dân, khuyến khích họ trồng cây ăn trái theo tiêu chuẩn quốc tế; hay sản phẩm xuất khẩu cần nâng cao tỷ lệ sản phẩm chế biến (nước ép, sấy khô, đóng hộp…) để tăng giá trị và sự đa dạng. DN đã thâm nhập được thị trường cần tăng đầu tư vào dây chuyên sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển… sao cho sản phẩm đạt chất lượng và số lượng, giá chào bán ổn định thì mới có thể nói đến việc tăng xuất khẩu vào những thị trường “xịn”.