Sau lời từ chối
Hành động từ chối cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 2 dự án FDI về dệt nhuộm của Đà Nẵng đang hâm nóng dư luận mấy ngày qua. Đa số “hoan hô” và tán đồng với chính quyền địa phương, khi họ cương quyết “quay lưng” với dự án được đánh giá là có tác động đến môi trường. Nhiều người còn lấy làm mừng vì thời trải thảm đỏ, ưu đãi hết mức và mở cửa hết mức dường như đã qua. Nhưng đặt vấn đề này trong bối cảnh hiện nay và nhìn lại lịch sử FDI của Việt Nam thì vấn đề cần một cái nhìn tỉnh táo hơn.
Ảnh minh họa |
Dệt may đang đứng ở một trong những vị trí đầu bảng về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đóng góp nhiều tỷ USD vào cán cân thanh toán quốc tế. Còn hơn thế, vượt ra ngoài những giá trị hữu hình đó, dệt may Việt Nam còn khiến cho quốc gia được nhận biết về mặt sản xuất, ít nhiều đã có “thương hiệu” gắn trên sản phẩm bán khắp toàn cầu, qua cái mác con con “Made in Vietnam”.
Nhưng, cũng chẳng cần cao siêu đến thế, vì cán cân thanh toán, hay thương hiệu là điều không dễ hiểu và trừu tượng. Gần gũi với cuộc sống hơn, nhiều gia đình ở nông thôn hiện vẫn bám vào dệt may để lo tương lai cho con họ. Dệt may đang thực sự giúp nhiều thanh niên không qua đào tạo bậc cao cũng có việc làm, thu nhập để có cơ sở xây dựng gia đình.
Tuy thế, ai cũng biết, liên tục phát triển với quy mô sản xuất và thương mại ngày càng cao, nhưng dệt may hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam chủ yếu là gia công, không đem lại nhiều giá trị gia tăng. Lương công nhân thấp, làm việc nhiều giờ, chính sách với lao động không đảm bảo nên nhiều khi quan hệ chủ sử dụng và lao động nảy sinh mâu thuẫn, đình công…
Rất nhiều địa phương từng là “căn cứ địa” của dệt may đang phải đứng trước bài toán khó, các cơ xưởng từng đặt ở vị trí giao thông thuận tiện, nhưng nay muốn chuyển về các địa bàn hẻo lánh hơn để tận dụng chi phí nhân công rẻ. Họ để lại vấn đề lao động cho địa phương xử lý. Và đó có lẽ cũng là nguyên nhân mà nhiều địa phương gần đây tỏ ra “chán” dệt may…
Tuy nhiên, cơ hội thay đổi những hạn chế của dệt may đang đến, khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có khả năng được thông qua sớm. Nó tạo cơ hội cho sản phẩm dệt may của Việt Nam có được ưu đãi nhiều hơn nữa ngay tại các thị trường lớn hiện nay.
Đồng nghĩa rằng, Việt Nam có lợi thế hơn để vượt qua đối thủ. Nhưng, TPP đi kèm “yêu sách”, sản phẩm làm ra phải chứng minh được nguyên liệu đầu vào cũng có xuất xứ từ các nước thành viên TPP. Chính vì thế, thị trường nhận diện một làn sóng đầu tư vào công nghiệp phụ trợ dệt may, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài.
Quay trở lại với trường hợp của Đà Nẵng nêu trên, lý do môi trường được đưa ra để từ chối cấp giấy chứng nhận đầu tư cho đối tác ngoài là hoàn toàn thuyết phục. Nhưng thử nhìn lại giai đoạn đầu thu hút FDI của Việt Nam, đa số các khu công nghiệp khi mời chào nhà đầu tư đều trưng lên những lợi thế của mình về hạ tầng giao thông, điện đến chân công trình, mật độ cây xanh… và trong đó thường bao gồm xử lý chất thải tập trung.
Nay vì từng DN phải tự đầu tư nên rất tốn kém, dự án vì thế có thể không còn khả thi, khi suất đầu tư trên mỗi sản phẩm lớn hơn làm kém sức cạnh tranh. Ngay cả những DN đa quốc gia đã đầu tư cả chuỗi dệt may trên phạm vi toàn cầu vẫn phải tính bài toán tập trung quy mô về dệt nhuộm, Trung Quốc vào giai đoạn trước thường được họ chọn.
Nay TPP đặt ra yêu cầu dệt nhuộm nên được sản xuất trong nước để chủ động tiếp cận các ưu đãi. Với trường hợp của Việt Nam, nếu không cùng với đối tác tính toán chia sẻ được chi phí đầu tư về môi trường, các dự án dệt nhuộm khó có thể được nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam. Thực tế là có những DN FDI đã bày tỏ khó khăn trong đầu tư dệt nhuộm, liên quan đến chi phí xử lý môi trường. Và TPP sẽ là cuộc đua của DN trong nước, cơ hội đến đích khó khăn hơn.
Như vậy, chuyện Đà Nẵng từ chối cấp giấy chứng nhận đầu tư cho dự án FDI về dệt nhuộm nên nhìn ở góc độ rộng hơn, liên quan đến tương lai của một ngành, một góc nền kinh tế, một thương hiệu dệt may Việt Nam... Nó đặt ra những yêu cầu phải xử lý mang tính hệ thống, chứ không chỉ đơn giản là cái lắc đầu, dễ cho mình.