Sợ làm chủ nợ tín chấp
Ưu đãi hay ngược đãi
Trong bối cảnh lãi suất đã giảm nhiều, song tín dụng vẫn khó tăng. Ngoài các nguyên nhân như sức cầu trong và ngoài nước yếu, triển vọng kinh tế chưa sáng sủa... thì một nguyên nhân quan trọng là do DN không đủ điều kiện để vay vốn. Giải pháp tín chấp được nhìn nhận là một trong những lối mở cho DN. Song với ngân hàng không khỏi e dè bởi khi xảy ra rủi ro DN đâu còn “tóc” cho ngân hàng nắm. Sợi dây pháp lý – Luật Phá sản 2004 càng khiến cơ hội thu hồi vốn thêm lỏng lẻo.
Với quy định như Luật Phá sản hiện nay, việc cho vay tín chấp khá rủi ro
Khoản 1, Điều13, Luật Phá sản 2004 quy định “Khi nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, thì các chủ nợ không có đảm bảo hoặc đảm bảo một phần đều có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX”. Chủ nợ tham gia giải quyết phá sản thông qua thiết chế Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên, Hội nghị này chỉ được Thẩm phán triệu tập khi có các chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có tài sản đảm bảo yêu cầu.
Tuy nhiên, các chủ nợ không có tài sản lại không coi đây là một giải pháp tốt để thu hồi vốn. Điều 37, Luật Phá sản quy định thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản còn lại của DN: thanh toán phí phá sản, các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã được ký kết. Các chủ nợ không có tài sản đảm bảo được thanh toán từ phần tài sản còn lại theo tỷ lệ tương ứng với số nợ.
Chủ nợ có khả năng bù trừ nghĩa vụ với DN lâm vào tình trạng phá sản có lợi thế lớn hơn chủ nợ có bảo đảm. Chủ nợ này có quyền thỏa thuận với DN lâm vào tình trạng phá sản để thực hiện việc bù trừ không có bất kỳ sự hạn chế nào của Luật, không chịu sự giám sát của thẩm phán. Theo Điều 48, Luật Phá sản |
Trên thực tế, tài sản còn lại của DN mắc nợ còn rất ít trong khi các chủ nợ rất đông. Do vậy, các chủ nợ thường quan niệm đòi nợ theo thủ tục phá sản là phương thức kém hiệu quả nhất nên không hợp tác khi nộp đơn yêu cầu phá sản DN.
Trong khi đó, nếu là tài sản có đảm bảo, Điều 35, Luật Phá sản quy định: Trường hợp thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với DN, HTX thì các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Tòa thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó.
Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của DN, HTX. Vậy phần nợ còn thiếu này và nợ không có tài sản đảm bảo sẽ được thanh toán theo thứ tự nào vẫn còn là một câu hỏi ngỏ.
Chông chênh ranh giới được mất
Khoản 2, Điều 39, Luật Phá sản 2004 quy định, trong trường hợp người bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản thì người được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với người nhận bảo lãnh.
Điều này vô tình biến các chủ nợ có đảm bảo thành chủ nợ không có đảm bảo. Bởi trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nếu khách hàng không có tài sản đảm bảo, khi vay vốn sẽ yêu cầu bên thứ ba (DN khác) dùng tài sản để đảm bảo cho khoản vay của mình tại ngân hàng. Khi đó, ngân hàng thường đánh giá năng lực của đơn vị bảo lãnh để cho vay.
Trên thực tế, khi các con nợ hoặc chủ nợ không có tài sản đảm bảo nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản thì thường là vào thời điểm quá muộn, thời điểm mà hầu như con nợ không còn tài sản gì hoặc còn lại rất ít tài sản. VCB |
Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ là chủ nợ có bảo đảm. Nhưng khi đơn vị bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản, ngân hàng quay trở lại “nắm” khách hàng cho vay. Quy định này khiến ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lớn không thu hồi được nợ trong trường hợp bên được bảo lãnh khó khăn về tài chính.
Một tình huống khác là bên nhận bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, thì trong trường hợp này họ sẽ trở thành chủ nợ không có đảm bảo (Điều 62, Khoản 3).
Trường hợp đến thời điểm mở thủ tục phá sản, mà người bảo lãnh vẫn chưa được thực hiện nghĩa vụ trừ nợ thay cho con nợ (người được bảo lãnh) thì lúc này câu hỏi đặt ra là ai có quyền tham gia vào danh sách chủ nợ và hội nghị chủ nợ? Không được tham gia thủ tục phá sản của con nợ (người được bảo lãnh), người bảo lãnh sẽ ở trong tình trạng bất lợi. Bởi đối với chủ nợ có đảm bảo, người bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho người được bảo lãnh.
Nhưng, sau khi thực hiện nghĩa vụ này người bảo lãnh có thể sẽ không bao giờ thực hiện được quyền yêu cầu người được bảo lãnh trả nợ lại cho mình. Lý do là người được bảo lãnh lúc đó đã tuyên bố phá sản, tài sản đã bị thanh lý, xóa sổ và chấm dứt tồn tại với tư cách chủ thể kinh doanh. Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ của Luật Phá sản 2004.
Làm rõ tư cách chủ nợ của bảo hiểm tiền gửi Theo pháp luật về bảo hiểm tiền gửi dường như tổ chức bảo hiểm tiền gửi đóng vai trò chủ nợ không có tài sản đảm bảo của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi với số tiền bảo hiểm đã chi trả cho người gửi tiền. Tuy nhiên, Luật Phá sản hiện hành chưa làm rõ tư cách chủ nợ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi dẫn đến pháp luật chưa quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Không những thế trong quá trình thực hiện hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, nếu tổ chức bảo hiểm tiền gửi thấy việc phục hồi hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không có tính khả thi thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không? Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam |
Nhất Thanh