Tái cơ cấu ngân hàng – Kinh nghiệm từ Hàn Quốc
Hàn Quốc đã rơi vào cuộc khủng hoảng tiền tệ trầm trọng năm 1997 do sự thiếu hụt nghiêm trọng đô la thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Khủng hoảng tiền tệ, thực chất là khủng hoảng ngân hàng, đã dẫn đến sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, chất lượng các khoản vay giảm sút nhanh chóng buộc chính phủ Hàn Quốc phải nhanh chóng tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
P&A dưới sự điều hành của Nhà nước
Ngay sau khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, các cơ quan tài chính Hàn Quốc đã triển khai một hệ thống hành động khắc phục nhanh (PCA). Trong đó, tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu là chỉ số quan trọng nhất cho sự cần thiết của PCA.
Sau lần đánh giá vào tháng sáu năm 1998, cơ quan có thẩm quyền đã quyết định đóng cửa 5 ngân hàng với tỉ lệ an toàn vốn tổi thiểu theo Basel giảm xuống thấp hơn 8% tại thời điểm cuối năm 1997. Các ngân hàng này sẽ được 5 ngân hàng lành mạnh hơn mua lại thông qua hoạt động mua và tiếp nhận (P&A), cho phép mua lại các tài sản một cách có chọn lọc và tiếp nhận các tài sản nợ. P&A được ưa thích hơn việc thanh lý hay sát nhập và mua lại vì những tác dụng phụ lên người gửi tiền, người vay tiền và chính phủ, chưa kể người mua lại, sẽ nhỏ hơn và quá trình này sẽ được thực hiện trong khoảng thời gian ngắn hơn.
Bảy ngân hàng khác có tỉ lệ an toàn vốn theo basel nhỏ hơn 8% nhưng có khả năng thực hiện sự thay đổi, khi kế hoạch thay đổi này đã được thông qua một cách có điều kiện, được yêu cầu nộp bản kế hoạch cải tiến quản lý cho Uỷ ban giám sát tài chính (FSC). Bản kế hoạch phải đề cập đến các bước để lành mạnh hoá hoạt động kinh doanh thông qua việc tăng vốn, thay đổi trong đội ngũ quản lý và tinh giảm biên chế. Đội giám sát của FSC sẽ rà soát lại những kế hoạch này, sửa đổi và bổ sung trước khi ra quyết định.
Trong khi đó, các ngân hàng lành mạnh được khuyến khích mạnh mẽ trong việc củng cố hoạt động và phát triển dịch vụ ngân hàng toàn cầu để trở thành những ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực ngân hàng. Vụ sát nhập lớn nhất và quan trọng nhất đã diễn ra vào tháng 11 năm 2011, khi ngân hàng Kookmin và Ngân hàng thương mại và nhà ở sát nhập thành ngân hàng thương mại lớn nhất hàn quốc. Việc sát nhập của 2 ngân hàng này đã tạo nên một làn sóng về áp lực cạnh tranh và thúc đẩy hoạt động tái cơ cấu và sát nhập hơn nữa trong lĩnh vực ngân hàng, vì Kookmin là ngân hàng có thế mạnh trong hoạt động ngân hàng bán lẻ, còn ngân hàng thương mại và nhà ở có thế mạnh trong thị trường cho vay thế chấp.
Khi khủng hoảng bắt đầu, việc tái cấp vốn cho khu vực tài chính là cần thiết để làm giảm khủng hoảng tín dụng và duy trì chức năng của các ngân hàng như là những trung gian tài chính. Nhận thức sâu sắc điều này, Chính phủ đã bơm một lượng lớn vốn công vào các tổ chức tài chính, tổng cộng 167.6 tỉ won từ tháng 11 năm 1997 đến tháng 7 năm 2005. Trong đó, 86.8 tỉ won được bơm vào hệ thống ngân hàng. Các tổ chức tài chính có vấn đề đã nhận được tiền để thanh toán những khoản tiền gửi có bảo hiểm và mục đích tái cấp vốn chủ yếu bởi hiệp hội bảo hiểm tiền gửi Hàn quốc và để mua lại những khoản nợ xấu (NPLs) bởi hiệp hội quản lý tài sản Hàn quốc.
Chính phủ, cùng với Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi (KDIC), đã tư nhân hoá 4 ngân hàng quốc gia (Korea First, Cheju, Seoul và Chohung) từ năm 1999 bằng cách bán cổ phần.
Thay đổi về số lượng ngân hàng
(Tháng 1 năm 1998 và Tháng 9 năm 2005)
| Số ngân hàng vào cuối năm 1997 (A) | Đóng của và sáp nhập (B) | Số ngân hàng mới thành lập (C) | Số ngân hàng hoạt động (A-B+C) | ||
| Đóng cửa | Sáp nhập | ||||
Ngân hàng NHTM -NH toàn quốc -NH địa phương NH chuyên môn hoá | 33 26 (16) (10) 7 | 14 12 (8) (4) 2 | 5 5 (3) (2) - | 9 7 (5) (2) 2 | - - - - - | 19 14 (8) (6) 5 |
Bài học từ Hàn Quốc:
Tăng cường quy tắc thận trọng: Các cơ quan chức năng đã tăng cường quy tắc thận trọng của ngân hàng để nâng cao sự lành mạnh và tính ổn định, đưa hoạt động của các ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đầu tiên, hệ thống PCA được giới thiệu vào tháng 4 năm 1998. PCAs cho phép các cơ quan giám sát tài chính tự động ban hành các cảnh bảo tới các tổ chức tài chính khi các điều kiện quản lý của họ giảm xuống thấp hơn mức định sẵn. Hệ thống này giúp duy trì sự ổn định tài chỉnh và giảm thiểu các chi phí xã hội phát sinh từ khủng hoảng tài chính hay vỡ nợ.
Thứ hai là, tiêu chí để tài sản của ngân hàng được coi là dưới chuẩn đã thay đổi từ nợ quá hạn 6 tháng thành nợ quá hạn 3 tháng (tháng 9 năm 1998). Tiêu chuẩn cảnh báo cũng thay đổi từ những khoản nợ quá hạn 3 tháng thành nợ quá hạn 1 tháng. Và các tiêu chuẩn phân loại tài sản dựa trên khả năng thanh toán tương lai của người vay cũng được giới thiệu (tháng 12 năm 1999).
Thứ ba là, để giảm thiểu rủi ro do cho vay nhiều đối với một cá nhân, trần tín dụng với một cá nhân hay pháp nhân, cũng như là tổ chức kinh tế lớn và trần với các khoản tín dụng lớn đã giảm xuống (tháng 4 năm 1999). Cụ thể, trần tín dụng với cá nhân hay pháp nhân và trần tín dụng với các tổ chức kinh tế đã giảm từ 45% vốn tự có của ngân hàng xuống mức 20% và 25%, và khái niệm về các khoản tín dụng lớn với các cá nhân hay pháp nhân, các khoản tín dụn g tối đabằng 5 lần mức vốn tự có của ngân hàng, đã được thu hẹp từ 15% xuống 10% vốn tự có của ngân hàng
Tăng cường sự minh bạch trong quản lý các tổ chức tài chính: Việc công bố thông tin không đầy đủ và ra các quyết định thiếu minh bạch được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến mức độ tin cậy thấp của hệ thống tài chính Hàn Quốc. Tháng tư năm 1998, FSC đã đưa ra quy định về việc công bố thông tin, bao gồm việc công bố thông tin bắt buộc về giá trị các khoản nợ xấu, về hệ thống quản lý rủi ro và tín dụng và về các kết quả kiểm toán. Hàng quý, các ngân hàng phải công bố thông tin về bảng cân đối tài sản, và các thông tin công bố ko chính xác, ko trung thực sẽ chịu các hình phạt nặng hơn
Việc ra đời của các tập đoàn tài chính: Các quy định pháp lý về tập đoàn tài chính đã được đưa ra để tăng cường khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính thông qua việc mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động (tháng 11, năm 2000). Tập đoàn tài chính Woori (tháng 3 năm 2001), tập đoàn tài chính Shinhan (tháng 9 năm 2001) và tập đoàn tài chính Dongwon (tháng 3 năm 2003) đã lần lượt được thành lập.
Tăng cường hê thống tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính cho quá trình tái cơ cấu: Chính phủ đã sửa đổi các quy định tài chính có liên quan, bao gồm luật bảo vệ người gửi tiền, luật cải thiện cơ cấu ngân hàng, luật ngân hàng, để thức đẩy quá trình tái cơ cấu tài chính vào cuối năm 1997.
Quá trình tái cơ cấu và cải cách ngân hàng đã đạt được những thành công nhất định. Chất lượng tài sản tại các ngân hàng được cải thiện, tỉ lệ nợ xấu giảm 11,6% từ 13,6% vào cuối năm 1999 xuống 2% vào cuối năm 2004. Tỉ lệ an toàn vốn theo Basel tăng từ 7% vào cuối năm 1997 lên 11,3% và cuối năm 1994. Đặc biệt, lợi nhuận của các ngân hàng đã được cải thiện đáng kể, từ mức lợi nhuận âm ở những năm sau khủng hoảng đã tăng lên dương từ năm 2001. Năm 2004, ROA trung bình của ngành là 0.9% và ROE là 18%. Bên cạnh đó, thị phần của các ngân hàng trên thị trường cũng tăng mạnh so với các tổ chức tài chính phi ngân hàng, thị phần của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng đáng kể.
Nhìn tổng thể, quá trình tái cơ cấu ngân hàng ở Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á đã đem lại nhiều kết quả. Việc tái cơ cấu ngân hàng dưới sự lãnh đạo của Chính phủ được thực hiện nhằm tạo ra các cải cách theo hướng thị trường, nhằm đảm bảo hoạt động ổn định và ngày càng phát triển của các ngân hàng Hàn Quốc sao cho Hàn Quốc sẽ không còn lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính nữa.
Th.S Vũ Thị Kim Oanh (Học viện Ngân hàng)