Tài nguyên đang cạn kiệt, thuế vẫn thất thu
Trầy trật với cách tính thuế mới | |
Nhìn từ chuyện vênh thuế xăng dầu |
Tỷ trọng số thu từ thuế tài nguyên (trừ dầu thô) những năm qua tuy có xu hướng tăng lên, song vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 1%) trong tổng thu NSNN. Và PGS.TS.Lê Xuân Trường cho rằng chính sách thuế tài nguyên còn nhiều bất cập, tạo kẽ hở để DN tránh thuế và trốn thuế.
Chính sách thuế tài nguyên còn nhiều bất cập, tạo kẽ hở để DN tránh thuế và trốn thuế |
Đơn cử như ở Yên Bái, tổng số thuế tài nguyên thu được trong 5 năm 2011-2015 là 485,6 tỷ đồng, chiểm tỷ trọng 7,8 % tổng số thu ngân sách nội địa, trong đó số thu thuế tài nguyên từ khoáng sản đạt 337,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,42 % tổng số thu ngân sách nội địa trên địa bàn.
Số thu ngân sách từ khối các DN khai thác, chế biến khoáng sản là trên 15% tổng số thu ngân sách nội địa của tỉnh. Riêng thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản mới đạt gần 100 tỷ đồng/năm.
“Tuy nhiên các nguồn thu từ hoạt động khoáng sản còn thấp, chưa tương xứng với quy mô khai thác, sự xuống cấp của hạ tầng, ảnh hưởng môi trường, nguồn tài nguyên không tái tạo đang bị cạn kiệt”, ông Đoàn Quốc Trường – Phó cục trưởng Cục Thuế tỉnh Yên Bái cho biết. Và nguyên nhân do chính sách thuế tài nguyên chưa hợp lý, nhiều kẽ hở.
Theo luật thuế tài nguyên, số tiền thuế tuyệt đối thu được cho ngân sách được dựa trên 3 yếu tố chính: sản lượng, giá tính thuế, thuế suất trong đó 2 yếu tố là sản lượng, giá tính thuế hiệu quả phụ thuộc vào tính tuân thủ của người nộp thuế, chỉ có thuế suất do nhà nước quy định.
Sản lượng thực tế khai thác do các DN kê khai, báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước mà thực tế hiện nay do thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp trong khi chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước nên một số DN được cấp phép khai thác loại khoáng sản quý hiếm và có giá trị kinh tế cao như: chì kẽm, vàng, đồng, đá quý, đất hiếm hệ số rủi ro rất cao trong việc kê khai đủ sản lượng khai thác để nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, do các mỏ được cấp đều nằm ở vùng sâu, vùng xa, loại quặng này thường được vận chuyển lên biên giới để xuất tiểu ngạch.
Mặt khác do thuế tài nguyên tính trên sản lượng thực tế khai thác do người khai thác khai báo cho nên chưa khuyến khích tận dụng hết tài nguyên trong khai thác chế biến.
Nhiều DN khi khai thác đã bỏ tại nơi khai thác quá nhiều tài nguyên có giá trị thấp ví dụ như đá hoa trắng theo phản ánh của các DN khai thác thu hồi đạt dưới 10% trữ lượng khai thác đối với loại đá BLOK để xẻ tấm và tiêu thụ nguyên khối (đá hoa trắng BLOK xẻ tấm khi bán với giá 35-40 triệu đồng/m3, nếu bán nguyên khối cũng đạt gần 20 triệu đồng/m3), DN chỉ cần tiêu thụ số sản phẩm này đã đem lại lợi nhuận tới 50% tổng doanh thu, số sản phẩm chất lượng thấp bỏ tại bãi không cần tận dụng vì không phải đóng thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường.
Ông Hoàng Ngọc Thao - Công ty Apatit Việt Nam cho biết DN này đang cung cấp gần 90% nhu cầu quặng apatit cho các nhà máy sản xuất phân bón chứa lân nhưng chỉ khai thác trên 3 năm là hết quặng giàu (loại 1) lượng quặng nghèo (loại 3) cũng chỉ đủ cho 3 nhà máy sản xuất khoảng chừng 10 năm.
Các loại quặng này nằm cùng trên 1 vỉa quặng, khi khai thác phải lấy đồng thời cả quặng giàu và quặng nghèo mới triệt để tận dụng và tiết kiệm tài nguyên. DN cũng đang hướng tới chế biến sâu và tận thu tối đa tài nguyên để sử dụng lâu dài và tạo ra các sản phẩm có giá trị cao. Nhưng chính sách thuế với quặng loại 3 là bất cập, DN khai thác là lỗ.
Tài nguyên khai thác càng chế biến sâu nâng cao giá trị tài nguyên bán giá cao thì nộp càng nhiều thuế thuế tài nguyên, đồng thời với thuế GTGT, thuế xuất khẩu. Phần giá trị tăng thêm qua chế biến chịu thuế tài nguyên và thuế GTGT.
DN còn phải nộp khác: thuế bảo vệ môi trường (than); phí bảo vệ môi trường khai thác khoáng sản; phí, lệ phí... Tăng gánh nặng về thuế, chi phí lãi vay hoạt động khai thác, chế biến tài nguyên. Tăng chi phí đầu vào sản xuất, tăng giá thành sản phẩm của nền kinh tế.
Không chỉ không khuyến khích DN chế biến sâu mà còn để lại một kẽ hở lớn để DN tránh thuế, trốn thuế. Xảo thuật của DN tự hình thành công ty vệ tinh, tách biệt giữa khâu khai thác và khâu chế biến, để nộp thuế trên giá bán khâu khai thác, tránh thuế ở khâu chế biến (công ty khai thác bán tài nguyên cho công ty chế biến).
Hạn chế tính thống nhất môi trường pháp lý, chưa tạo mặt bằng cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động khai thác, chế biến tài nguyên; dẫn đến trốn thuế, tránh thuế. Hạn chế đầu tư quy mô, công nghệ khai thác, chế biến, giảm giá trị gia tăng tài nguyên; giảm hiệu quả sử dụng tài nguyên.
“Thực tế này đòi hỏi phải nghiên cứu hoàn thiện Luật Thuế tài nguyên để chống thất thu ngân sách, cả về thất thu tiềm năng và thất thu thực về thuế tài nguyên”, PGS.TS Trường lên tiếng.