Tăng chất báo cáo tài chính
Đây là các khuyến cáo được giáo sư Michel Henry Bouchet hiện giảng dạy tại Trung tâm Pháp - Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG) chia sẻ với phóng viên Thời báo Ngân hàng.
Cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu hiện nay tác động thế nào đến Việt Nam, thưa giáo sư?
GS. Michel Henry Bouchet hiện giảng dạy tại CFVG, là người đứng đầu Trung tâm Tài chính Toàn cầu của trường SKEMA (Pháp) kiêm Giám đốc Chiến lược Quỹ Quản lý cổ phần toàn cầu Biển Bắc. Ông từng làm việc tại Văn phòng Thủ tướng Pháp, đảm trách các cương vị quan trọng về ngân hàng quốc tế, như Điều hành Các Vấn đề rủi ro quốc gia tại BNP, Điều hành Tài chính mảng các nước vay nợ của Ngân hàng Thế giới, Học viện Tài chính quốc tế ở Washington D.C và Chủ tịch Hội đồng Quản trịcủaOwen Stanley Financial SA. |
Cuộc khủng hoảng ở châu Âu nhiều khả năng vẫn diễn biến phức tạp và rất nhiều nhận định cho rằng sẽ phải mất rất nhiều thời gian nữa để EU có thể hồi phục được hoàn toàn. Điều này có nghĩa là nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng chưa thể hồi phục nhanh. Trong tương lai Việt Nam cần cải thiện năng lực sản xuất để dần chuyển dịch sản xuất sang các mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn. Tất nhiên, việc này đòi hỏi thời gian chứ không phải một sớm một chiều mà làm được. Nó đòi hỏi những thay đổi cả về mặt cơ cấu và thể chế, trong đó bao gồm cả các lĩnh vực như nghiên cứu và phát triển (R&D), đào tạo và giáo dục đại học. Còn nếu chỉ dựa vào lao động giá rẻ, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam sẽ ngày càng bị bào mòn.
Thực tế gần đây, kinh tế vĩ mô (KTVM) của Việt Nam đã được cải thiện khá rõ nét: Lạm phát giảm, tỷ giá ổn định, thâm hụt thương mại giảm… Theo giáo sư những điều này đã đủ để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)?
Phải nói thời gian qua, NHNN đã điều hành chính sách rất tốt, giúp ổn định KTVM, kiểm soát lạm phát... Điều cần làm hiện nay là biến tăng trưởng kinh tế thành phát triển bền vững. Trong ngắn hạn, vẫn còn 3 rủi ro lớn là thâm hụt ngân sách, áp lực lạm phát và thanh khoản yếu trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên về dài hạn, một trong những thách thức lớn nhất là làm sao tăng được tính cạnh tranh. Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam hiện đứng thứ 65, thấp hơn nhiều so với các nước như Sri Lanka hay Thái Lan. Việc dựa vào lợi thế nhân công giá rẻ đến nay không còn hiệu quả nữa. Thay vào đó, Việt Nam cần cải thiện công tác giáo dục đại học, đào tạo và đẩy mạnh đầu tư vào R&D. Một thách thức khác đối với tăng trưởng dài hạn của Việt Nam là cần một lịch trình để cải thiện công tác quản lý. Thực tế, tham nhũng vẫn là một trong những vấn đề khiến niềm tin của các nhà đầu tư dài hạn bị ảnh hưởng. Theo chỉ số đánh giá tham nhũng, Việt Nam bị xếp ở vị trí thứ 112, cũng thấp hơn các nước như Sri Lanka, Indonesia, và Thái Lan rất nhiều.
Các NĐT gián tiếp cũng đã vào thị trường Việt Nam để đầu tư nhưng những dòng vốn này mang tính chất ngắn hạn và độ bất ổn lớn. Hoạt động của một số quỹ ETF (exchange traded funds - quỹ đầu tư tín thác) tại Việt Nam cùng hai thị trường Ai Cập và Ấn Độ được đánh giá là tốt nhất từ đầu năm đến nay. Tuy nhiên, Việt Nam cần hơn các dòng vốn FDI vì không chỉ giúp giảm thâm hụt cán cân thanh toán mà còn mang vào đây những chuyển giao công nghệ và việc làm.
Nhiều định chế tài chính nước ngoài rất quan tâm đến các NHTM. (Ảnh: MH)
Theo đánh giá của giáo sư, ở thị trường Việt Nam, hiện những lĩnh vực nào được các NĐT nước ngoài quan tâm nhất?
Có lẽ lĩnh vực hứa hẹn thu hút đầu tư nhất là dầu mỏ và khai khoáng. Đây cũng là những lĩnh vực mà thị trường Việt Nam có khả năng cạnh tranh hơn so với các thị trường đang nổi khác.
Còn theo quan điểm của tôi, lĩnh vực bất động sản sẽ không còn nằm trong danh sách ưu tiên của các NĐT nước ngoài nữa.
Trong đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được Chính phủ Việt Nam phê duyệt mới đây, có đề cập tới việc xem xét tăng tỷ lệ sở hữu cho các TCTD nước ngoài? Giáo sư có cho rằng các NĐT nước ngoài sẽ quan tâm đến lĩnh vực này không?
Rõ ràng, việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia vào hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam là một quyết định chính sách tốt vì nó có thể giúp tăng vốn cho các ngân hàng. Đồng thời, giúp mang tới các công nghệ, quản trị tốt và nhanh hơn trên các lĩnh vực như thông tin, tính tuân thủ, công tác báo cáo cũng như sự minh bạch… theo chuẩn quốc tế. Đây là những điều có ích cho ngành Ngân hàng nói riêng và cho sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung.
Vậy đâu là những rủi ro mà Chính phủ và NHNN cần chuẩn bị đối phó hoặc cần tránh?
Có lẽ NHNN và Chính phủ nên tăng cường chất lượng công tác báo cáo tài chính trong các ngân hàng trước khi triển khai bất cứ một chính sách mở cửa nào trong lĩnh vực này.
Xin cảm ơn giáo sư!
Đỗ Lê thực hiện