Tăng vốn điều lệ: Khó nhưng vẫn phải làm
TS. Nguyễn Trí Hiếu |
Theo ông, thời điểm này NH tăng vốn điều lệ có phù hợp không?
Chắc chắn rồi. Tôi cho rằng, tại thời điểm này, các NH nên đề xuất kế hoạch tăng vốn điều lệ với Đại hội cổ đông. Không như các DN sản xuất bình thường khác, vốn tự có 1 đồng nhưng có thể nợ 10 – 20 đồng và dù có âm vốn họ vẫn có thể hoạt động. Nhưng, một NH âm vốn thì mất đi tất cả khả năng kinh doanh và thanh toán. Vì vậy, tăng vốn luôn là cột trụ của các NH cũng như các công ước quốc tế Basel I, II, III. Tất cả các công ước trên đều nhấn mạnh vấn đề vốn phải đủ.
Mặt khác, thời gian qua, có những NH giá trị thực vốn điều lệ có thời điểm xuống thấp. Thậm chí có NH vốn giá trị thực âm nhưng không thể hiện trên báo cáo tài chính. Nên đối với các NH Việt Nam vấn đề tăng vốn điều lệ luôn đúng và cần thiết.
Hình thức nào giúp NH tăng vốn điều lệ hiệu quả trong thời điểm này, thưa ông?
Đây là câu hỏi khó đối với NH. Vào thời điểm vốn khan hiếm mà lại phải tăng vốn đúng là như “mò kim đáy bể”. Với tình hình kinh doanh trong thời gian qua, cổ phiếu NH đã không còn tạo sức hút đối với nhà đầu tư. Để thuyết phục được NĐT bỏ vốn vào NH trong thời điểm này không hề đơn giản. Thông thường NĐT phải xem xét 4 giá trị để đưa ra quyết định có đầu tư hay không đó là: mệnh giá, giá trị sổ sách, giá thị trường và giá trị rất quan trọng trong định giá mà các NĐT quan tâm là giá trị thực vốn chủ sở hữu.
Giá trị cuối cùng này không phải NĐT nào cũng có thể xác định được, mà phải tuỳ vào chất lượng nguồn thông tin và trình độ chuyên nghiệp của họ mới có thể tìm ra giá trị thực của cổ phiếu đó. Việc này càng khó hơn đối với trường hợp NH chưa lên sàn, thì khả năng phân tích, định giá đúng của NĐT lại càng khó khăn hơn vì thông tin không đầy đủ, hạn chế... Nên vấn đề bán cổ phần trên thị trường rất khó khăn đối với các NH tại thời điểm này.
Tuy nhiên, dù khó nhưng tôi nghĩ vẫn phải làm. Tôi cho rằng, đối với những NH yếu kém hoặc vốn điều lệ thấp, thay vì đôn đáo chạy ra ngoài tìm vốn có thể lựa chọn phương án sáp nhập để hai bên bổ sung vốn cho nhau. Đây là giải pháp khả thi, phù hợp với tình hình sức khoẻ của các NH. Còn NH hoạt động yếu kém muốn tăng vốn điều lệ nhưng chỉ trông chờ vào việc yêu cầu cổ đông mua thêm cổ phần góp vốn hoặc phát hành cổ phần mới cho cổ đông tôi nghĩ hầu như không khả thi.
Ông nghĩ sao với giải pháp các NH giữ lại cổ tức để bổ sung vốn điều lệ?
Tôi nghĩ đây là giải pháp khôn ngoan. Trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, nếu được sự đồng tình của cổ đông để giữ lại cổ tức thì quá tốt, vì NH tích luỹ thêm được nguồn vốn để tái đầu tư, mở rộng kinh doanh... Tất nhiên, quyết định này phải có sự đồng thuận cao chứ không nên ép buộc, bởi có thể gây bức xúc từ phía cổ đông.
Vì thông thường, nếu cổ đông gửi tiền vào NH dưới hình thức “Gửi tiết kiệm” thì ít nhất họ nhận được lãi suất 5-6%/năm. Nhưng khi họ chấp nhận bỏ khoản tiền đó đầu tư vào kênh có độ rủi ro lớn hơn (mua cổ phiếu NH – PV) thì họ phải được hưởng một tỷ lệ sinh lời nhất định. Không phải cổ đông nào cũng chịu hy sinh cổ tức, nhất là cổ đông nhỏ. Nên thay vì không chia cổ tức tiền mặt, tôi cho rằng có thể chia cổ tức bằng phát hành cổ phiếu. Như vậy, tiền vẫn không ra khỏi NH mà cổ đông vẫn được hưởng giá trị lãi nào đó trên số tiền mình đóng góp, NH lại vừa gia tăng quyền lợi lẫn trách nhiệm đối với NH.
Theo ông với NH Việt Nam, vốn điều lệ ở mức nào vừa đủ vừa không tạo quá áp lực mà vẫn đảm bảo gối đệm an toàn?
Tôi được biết chủ trương NHNN chỉ giữ lại gần 20 NH hoạt động trên thị trường NH và đây là chủ trương hoàn toàn đúng. Với quy mô như hiện nay chỉ cần số lượng từng đó NH với quy mô vốn khoảng từ 10 nghìn tỷ đồng trở lên. Còn để các NH có thể cạnh tranh khu vực thì vốn điều lệ của NH phải từ 500 triệu USD trở lên.
Xin cảm ơn ông!