Thế và lực hôm nay
Dấu ấn một cung đường | |
Hành trình xây dựng niềm tin | |
30 năm cải cách ngân hàng:Hun đúc những thành công |
Bám sát tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế
Vai trò của ngành NH nói chung, NHNN nói riêng trong ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện đặc biệt rõ nét sau giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua. Như PGS-TS. Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc NHNN từng chia sẻ, hoạt động quản lý và điều hành của NHNN đã và đang được đổi mới theo hướng chủ động, tích cực, minh bạch và hiệu quả, tiệm cận dần với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Với việc Việt Nam tham gia và đàm phán gia nhập hàng loạt các hiệp định thương mại song phương và đa phương, NHNN đã chủ động nắm bắt và tiến hành những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cũng như ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực NH theo hướng minh bạch hóa, tuân thủ theo nguyên tắc thị trường và các cam kết quốc tế.
Cùng với đó, công tác quản lý rủi ro, thanh tra giám sát đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Khuôn khổ pháp lý về các chuẩn mực an toàn, lành mạnh, minh bạch của hệ thống các TCTD đã được cải thiện đáng kể, tiến gần hơn các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, tạo nền tảng cho các TCTD hoạt động an toàn hơn và thúc đẩy cơ cấu lại theo các mục tiêu định hướng đề ra. Các NHTM Việt Nam đang từng bước triển khai áp dụng Basel II theo đúng lộ trình quy định.
Công nghệ và hạ tầng tài chính cũng không ngừng được cải thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về khả năng kết nối trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực tài chính-NH. Trong đó, hệ thống thanh toán và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế không ngừng được nâng cấp và cải tiến.
Hệ thống thanh toán điện tử liên NH (IBPS) được nâng cấp, hiện đại hóa theo tiêu chuẩn quốc tế. Với năng lực xử lý đến 2 triệu giao dịch/ngày, hệ thống thanh toán IBPS có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu giao dịch thanh toán điện tử liên NH giá trị cao một cách kịp thời, an toàn trong nhiều năm tới. Hệ thống mạng lưới cung ứng dịch vụ NH phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của nền kinh tế và người dân.
Nhiều NH có danh tiếng toàn cầu như: HSBC, Standard Chartered, ANZ… đã hiện diện và kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam, trong khi một số NH Việt Nam cũng đã có sự hiện diện ở nước ngoài. Ngoài ra, với vai trò là một thành viên tích cực tham gia vào các nhóm công tác về hệ thống thanh toán khu vực ASEAN, NHNN đã cùng NHTW các nước trong khu vực vạch ra lộ trình và giải pháp để triển khai kết nối các hệ thống thanh toán bán lẻ trong khu vực.
Trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, ngành NH thời gian qua đã không ngừng nâng cao cả về số lượng, chất lượng dịch vụ và các tiện ích. Các sản phẩm, dịch vụ NH ngày càng đa dạng và phong phú hơn, được số hóa mạnh hơn tạo điều kiện cho người dân và DN tiếp cận ngày càng thuận tiện, dễ dàng.
Trong 5 năm qua, Việt Nam cũng được đánh giá là một trong những nước huy động và sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn tài trợ ưu đãi của các định chế tài chính quốc tế như WB, IMF...
Trong bối cảnh Việt Nam đã nằm trong nhóm các nước có thu nhập trung bình và các nguồn hỗ trợ tài chính ngày càng thu hẹp hơn, NHNN đã và đang tăng cường các hoạt động hợp tác, đẩy mạnh tìm kiếm đối tác và nhà tài trợ tiềm năng, xúc tiến gia nhập các định chế tài chính quốc tế và khu vực mới như NH Thanh toán Quốc tế (BIS), NH Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB)… qua đó mở rộng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Nhìn lên để bước tiếp
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra không ít những thách thức về cạnh tranh, đảm bảo an ninh và ổn định tài chính tiền tệ của hệ thống NH. Về vấn đề này, hiệu quả hội nhập còn chưa cao, quá trình đổi mới ở trong nước, đặc biệt là đổi mới và hoàn thiện thể chế, chưa theo kịp lộ trình và mức độ cam kết quốc tế, chưa xây dựng được các chiến lược đối phó với rủi ro và các cú sốc khi hội nhập sâu hơn. Đây là những vấn đề cần nỗ lực cải thiện thời gian tới.
Bên cạnh đó, theo chuyên gia kinh tế, TS. Vũ Đình Ánh, công cuộc mở cửa, hội nhập đặt ra nhiều khó khăn, thách thức mà NHNN phải giải quyết. Trong đó, một mặt là bản thân chức năng, nhiệm vụ và các công cụ mà NHNN sử dụng phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế. “Chúng ta mở cửa thị trường tài chính tiền tệ cho nước ngoài vào và mình đi ra nước ngoài nên toàn bộ những quy định, chính sách đó sẽ phải theo thông lệ quốc tế, không thể một mình một sân được”, TS. Ánh nói.
Đơn cử như với chính sách tỷ giá, trong Hiệp định TPP đặt ra vấn đề ngăn chặn một nước thành viên chủ động phá giá đồng tiền. Như vậy thì việc điều hành tỷ giá sẽ phải vừa làm sao phù hợp với giá trị của đồng tiền, góp phần giữ được ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng - các mục tiêu bên trong của chúng ta, nhưng đồng thời phải đảm bảo không đi ngược lại với các cam kết quốc tế.
Việc Việt Nam đang tái cơ cấu hệ thống NH hiện nay, ngoài mục tiêu là loại bỏ những NH yếu kém thì mục tiêu đằng sau đó chính là để củng cố năng lực cạnh tranh của cả hệ thống và hình thành nên những NH trụ cột của hệ thống có năng lực cạnh tranh tốt cả ở trong nước và mở được ra quốc tế. |
Đối với công tác thanh tra giám sát cũng vậy, không thể đặt ra những quy định dành riêng cho khu vực trong nước và khu vực nước ngoài vì xu thế hội nhập là hướng đến quy tắc không được phân biệt đối xử quốc gia.
Đó là chưa kể các cam kết về dịch vụ trong đó có mảng tài chính-NH mang tính quốc tế, xuyên biên giới nên chúng ta sẽ phải tuân thủ thực hiện. Hàm ý ở đây là quá trình hội nhập sẽ buộc chúng ta có nhiều thêm những quy định phải tuân theo, bên cạnh các mục tiêu do chính chúng ta đặt ra, nên sẽ phải làm sao để các quy định này hài hòa, không mâu thuẫn với nhau.
Câu chuyện quản lý rủi ro an toàn hệ thống cũng vậy. Việc các NHTM phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế như Basel II hoặc cao hơn đòi hỏi NHNN sẽ phải là người cụ thể hóa các văn bản liên quan đối với các NHTM. Làm sao một mặt hỗ trợ các NHTM để họ có thể thực hiện được các chuẩn mực đó, đồng thời NHNN cũng phải kiểm soát, “ép” các NHTM phải đạt tới các chuẩn mực này.
Mặt khác, yếu tố cạnh tranh quyết liệt và gay gắt hơn tất yếu không tránh khỏi. Ông Ánh nhận định: “Hội nhập buộc các TCTD Việt Nam đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn, trên phạm vi rộng hơn. Vấn đề làm thế nào để họ tồn tại và cạnh tranh được thì vai trò của NHNN ở đây cũng rất lớn và quan trọng”. Do đó, việc Việt Nam đang tái cơ cấu hệ thống NH hiện nay, ngoài mục tiêu là loại bỏ những NH yếu kém thì mục tiêu đằng sau đó chính là để củng cố năng lực cạnh tranh của cả hệ thống và hình thành nên những NH trụ cột của hệ thống có năng lực cạnh tranh tốt cả ở trong nước và mở được ra quốc tế.
Các chuyên gia cho rằng, mấu chốt quan trọng nhất trong hội nhập là ngành NH nói chung, NHNN nói riêng cần nỗ lực hòa được vào dòng chảy của các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện còn một khoảng cách khá xa so với các nước tiên tiến. Lúc này, chúng ta sẽ không ngồi để nhìn xuống và so sánh hệ thống của mình đã vượt xa các nền kinh tế kém phát triển bao nhiêu mà cần nhìn lên để xem có thể làm gì tốt hơn trong thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.
“So sánh với vai trò và thực tế thực hiện của NHTW các nước, tôi thấy cần từng bước nâng cao hơn nữa tính độc lập của NHTW phù hợp với mức độ hội nhập tài chính quốc tế. Theo đó, cần trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN”, ông Phạm Hồng Hải, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam nêu quan điểm.
Theo vị CEO này, NHNN nên xem xét đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ thông qua việc tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ, mở rộng thành viên tham gia thị trường. Cùng với đó, tiếp tục nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN và hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Ngoài ra, cần phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để nâng cao hiệu quả điều hành.