Thu hút FDI: Cần nhìn lại
Nhà đầu tư mất kiên nhẫn
Không thể phủ nhận những đóng góp của nguồn vốn FDI cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm qua. Từ năm 2001 đến năm 2011, thông qua các loại thuế, các doanh nghiệp (DN) FDI đã nộp hơn 15,5 tỷ USD vào ngân sách nhà nước; tổng sản phẩm của DN FDI chiếm tới 20% GDP; trung bình mỗi năm từ 2000 đến 2010 giải quyết việc làm cho khoảng hơn 1 triệu lao động. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định thu hút FDI tại Việt Nam đang chú trọng về "lượng" nhiều hơn về “chất”. Và mới chỉ dựa trên lợi thế nguồn lao động giá rẻ, nhưng những lợi thế này đang mất dần.
Hiện các DN FDI đóng góp trên 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. (Ảnh: St)
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số vốn FDI cam kết vào Việt Nam năm 2011 là 14,7 tỷ USD, bằng 74% so với mức 19,9 tỷ USD của năm 2010 và bằng 68% mức 21,5 tỷ USD của năm 2009. Ba tháng đầu năm 2012, tổng số vốn FDI đăng ký đạt 2,26 tỷ USD, bằng 44,4% về số dự án và 77,2% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm ngoái. Sự sụt giảm của vốn FDI những năm gần đây một phần bởi lý do khách quan từ môi trường kinh tế thế giới khó khăn làm suy giảm dòng vốn đầu tư, song phần ớn là do lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao khiến cho chi phí sản xuất bị đội lên. Tờ Financial Times cho hay, tỷ lệ lạm phát cao nhất châu Á và những trì trệ trong đổi mới cơ sở hạ tầng là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu kiên nhẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Tờ báo này cũng trích lời một luật sư sống lâu năm tại Hà Nội cho rằng nếu không cải cách kịp thời, một khi hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc được hiện thực hóa năm 2015, Việt Nam sẽ bị bỏ lại đằng sau trong cuộc đua thu hút đầu tư với các nước trong khu vực.
Đặt trong tương quan với các nước lân cận như Ấn Độ hoặc Bangladesh, Việt Nam không những có giá nhân công cao hơn mà trình độ lao động cũng thấp hơn (đặc biệt là khả năng tiếng Anh), ngành công nghiệp hỗ trợ lại nghèo nàn, khiến nhiều nhà đầu tư không thể không cân nhắc việc rút vốn từ Việt Nam đổ sang các nước này.
Mặt trái của FDI
Một vấn đề thời sự đang nổi lên hiện nay là hoạt động chuyển giá của các DN FDI. Nếu như các DN nhà nước lời giả lỗ thật thì ngược lại, DN FDI lại tận dụng mối liên kết với các đầu mối nguyên liệu của nước sở tại để đội giá thành đầu vào, đồng thời phá giá đầu ra, dẫn đến một mũi tên trúng hai đích là vừa tránh thuế thu nhập DN, vừa loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trong nước. Không những thế, tại nhiều công ty liên doanh, đối tác nước ngoài cũng lợi dụng việc làm ăn "thua lỗ" này và nguồn vốn dồi dào từ công ty mẹ để tăng vốn, dần dần thôn tính cổ phần của đối tác Việt Nam và trở thành DN 100% vốn nước ngoài. Trong số 585 DN FDI bị thanh tra chuyển giá trong 9 tháng đầu năm 2011, có đến 90% số DN bị phát hiện vi phạm về hạch toán chi phí. Trên thực tế, DN FDI có rất nhiều phương cách để mập mờ trong hạch toán, chủ yếu là do lợi dụng các kẽ hở trong quá trình nhập hàng, quy định xác thực tài sản, quy định niêm yết và chuyển đổi vốn trên sàn chứng khoán...
Bên cạnh chuyển giá, một vấn đề nữa đang gây nhức nhối dư luận đó là ảnh hưởng đến môi trường của các DN FDI. Không chỉ có vụ "đình đám" của công ty Vedan "đầu độc" dòng sông Thị Vải, mà còn một loạt những công ty khác như công ty Tung Kuang, công ty PangRim Neotex tiếp tục cho thấy có dấu hiệu xả thải làm ô nhiễm môi trường nước và không khí. Lợi dụng sự chạy đua thu hút vốn FDI của các địa phương, nhiều DN FDI cố tình nhập khẩu công nghệ lỗi thời về sản xuất ở Việt Nam. Điều này không chỉ khiến chúng ta lạc hậu về khoa học kỹ thuật mà còn gây tác hại lâu dài cho môi trường, điều kiện sống sau này. Chính sự "nhắm mắt làm ngơ", dễ dãi của các địa phương đối với các DN FDI, đã khiến Việt Nam trở thành điểm đến cho những dự án "xuất khẩu" ô nhiễm của các nước phát triển.
Chúng ta thu hút vốn FDI một cách ồ ạt song chưa thật sự hiểu được mức độ hấp thụ của mình đến đâu. Cả nước có hơn 13.500 DN FDI, nhưng số DN trong nước đáp ứng được những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ mà các DN FDI đòi hỏi vẫn vô cùng ít ỏi. Cũng chính vì điều này mà DN FDI khi sang Việt Nam thường đem theo cả quy trình công nghệ trọn gói, hoặc tìm kiếm sản phẩm hỗ trợ của chính họ hoặc các nước láng giếng như Thái Lan, Trung Quốc... vô hình trung các DN FDI không những không chuyển giao công nghệ cho DN trong nước mà còn đẩy giá thành sản xuất lên cao. Tương tự như vậy đối với thị trường lao động, do trình độ lao động của chúng ta nhìn chung còn rất thấp, nhiều DN khi sang đầu tư tại Việt Nam đã đem theo cả bộ máy những vị trí chủ chốt từ nước ngoài sang, khiến cho lợi ích nâng cao trình độ cho lao động trong nước cũng không còn.
Giảm về lượng để tăng về chất
25 năm trước, khi Việt Nam bắt đầu mở cửa cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế đang ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng, nên mặc dù đã có những quy định để chọn lọc dự án FDI song nhiều khi những quy chuẩn này đã bị "hy sinh" trong cuộc chạy đua thành tích giữa các địa phương. Nhưng giờ, đã đến lúc chúng ta chậm lại để biết đã "được" và "mất" những gì. Hơn nữa, tận dụng thời điểm nhà nước đang cải cách toàn bộ nền kinh tế, việc thu hút vốn FDI cũng cần phải được cải cách, hướng đến mục tiêu các nhà đầu tư tìm đến Việt Nam với những lý do bền vững hơn chứ không phải theo cách "ăn xổi ở thì" như hiện tại. Về sàng lọc lại các DN, tại một hội thảo mới đây về nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng khẳng định, trong thời gian tới, cơ chế ưu đãi đầu tư sẽ không cào bằng mà chỉ tập trung vào các dự án công nghệ cao, công nghiệp chế tạo và công nghiệp hỗ trợ.
Thuý Ngân