Thu hút FDI: Chất lượng quan trọng hơn số lượng
25% vốn đầu tư xã hội là quá đủ
Bắt đầu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2011-2020, tỷ lệ vốn đầu tư xã hội GDP đã được điều chỉnh từ41-42% của giai đoạn 2006-2010 xuống còn 35%.
Tuy nhiên, trong kế hoạch phát triển 2011-2015, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 250 - 266 tỷ USD. Trong đó, nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 75- 80%, ngoài nước là 20-25%. Điều này cho thấy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng.
Tuy nhiên, nhìn lại kết quả hấp thụ nguồn vốn từ nước ngoài thời gian qua của nước ta còn khá thấp. Thời kỳ 2006-2010, vốn ODA ký kết đạt 20,61 tỷ USD, cao hơn 12,7% so chỉ tiêu đề ra. Song, mức giải ngân chỉ đạt 13,86 tỷ USD, bằng 67,25% vốn ký kết, thấp hơn so với mức bình quân trong khu vực và quốc tế.
Cùng với đó, từ năm 2008 - 2011, vốn FDI thực hiện hàng năm cũng chỉ đạt 10- 11 tỷ USD. Nếu trừ 20-25% vốn đối ứng trong nước, vốn ròng từ nước ngoài đổ vào Việt Nam chỉ khoảng 8 tỷ USD.
Lắp ráp thuần tuý liệu có còn được "trải thảm đỏ" vào Việt Nam.
(Ảnh: VnExpress)
Ngoài ra, Việt Nam còn tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp qua TTCK, nhưng do sự biến động thường xuyên và bấp bênh của thị trường này nên khó hạch toán và dự báo xu hướng phát triển.
Bên cạnh đó, ODA đã và đang giảm dần khi Việt Nam đứng vào hàng ngũ những nước có thu nhập trung bình thấp. Do vậy, để giữ tỷ lệ ODA+FDI khoảng 25% tổng vốn đầu tư xã hội, cần phải tăng lượng vốn FDI để bù vào lượng vốn ODA sụt giảm.
Điều đó có nghĩa nhu cầu vốn FDI sẽ tăng theo thời gian, nếu 2011-2012 Việt Nam cần khoảng 9-10 tỷ USD/năm; thì năm 2014 - 2015 tăng lên 13-14 tỷ USD/năm; và năm 2019 - 2020 cần 21-22 tỷ USD.
Như vậy, nhu cầu vốn FDI thực hiện trung bình hàng năm thuần túy từ nước ngoài cần khoảng 14-15 tỷ USD.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Xuân Trung - Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, giai đoạn tới, Việt Nam không nên đặt yếu tố vốn lên hàng đầu trong việc thu hút FDI.
Hãy để cho các thực thể trong nước đảm nhiệm nguồn vốn cho tăng trưởng. Bởi nhìn lại giai đoạn 2006 - 2010, khu vực FDI đóng góp 25% vào tổng vốn đầu tư xã hội là khá cao so với thông lệ quốc tế.
Hệ quả là kinh tế Việt Nam đã phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài, rất rủi ro. Do đó, cũng không cần thiết phải huy động FDI cao hơn mức như hiện nay mà hãy chú trọng vào việc nâng cao hiệu quả đồng vốn đó.
Ưu tiên lựa chọn công nghệ
Nhìn nhận ở khía cạnh như vậy, với tư cách là một bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, FDI phải góp phần hướng nền kinh tế tới sự hài hòa giữa phát triển theo chiều rộng và chiều sâu.
Điều này có nghĩa cơ cấu thu hút và việc sử dụng FDI phải được thay đổi theo hướng nâng cao chất lượng, xóa bỏ tư duy "cứ nhiều là tốt" mà phải sàng lọc dự án FDI, lựa chọn dự án có sự lan tỏa lớn, đảm bảo yếu tố môi trường, định hướng vào những lĩnh vực phù hợp.
Do đó, nhiệm vụ quan trọng nhất của FDI giai đoạn 2011- 2020 phải góp phần nâng cao năng lực công nghệ cho nền kinh tế. Bởi năng lực công nghệ chính là gốc rễ cho việc cải thiện nhanh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và thoát bẫy thu nhập trung bình.
Công nghệ sẽ giúp nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh, tham gia nhiều hơn vào mạng sản xuất khu vực và sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, bền vững, thúc đẩy tăng trưởng xanh, giúp bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng.
Để đạt được mục tiêu này,Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Văn Lạng cho rằng, trong các tiêu chí về vốn, lao động, công nghệ, quản lý, ngoại tệ mà FDI mang vào Việt Nam, yếu tố công nghệ phải được ưu tiên hàng đầu, tiếp đến mới là quản lý và cuối cùng là vốn và lao động.
Nhiệm vụ quan trọng thứ hai là FDI phải đóng vai trò dẫn dắt khối tư nhân trong nước, kết nối chuỗi giá trị toàn cầu và nâng chất trong chuỗi giá trị đó.
DN FDI phải tạo sự lan tỏa lớn đến khu vực trong nước, kết nối chặt chẽ với DN trong nước trong quá trình sản xuất và phân phối.
Đồng thời DN FDI cũng phải có sự liên kết chặt chẽ với công ty mẹ, đóng vai trò trung gian cho sự liên kết giữa DN tư nhân trong nước với các tập đoàn đa quốc gia ở nước ngoài.
Ông Nguyễn Xuân Trung cho rằng, để nâng cao chất lượng FDI tại Việt Nam, một mặt phải thu hút nhiều nhà đầu tư có chất lượng cao, mặt khác phải cải thiện các yếu tố môi trường trong nước như thể chế, pháp luật, liên thông thị trường… để hấp thụ một cách hiệu quả nhất dòng vốn FDI.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ để thu hút những dự án đầu tư sản xuất có công nghệ cao từ các tập đoàn đa quốc gia.
Đồng thời, đẩy mạnh phát triển khu vực DNNVV và khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào công nghiệp phụ trợ bằng cách thực hiện chính sách bình đẳng giữa các loại hình DN. Thu hút nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới đầu tư và thúc đẩy sự liên kết giữa DN trong nước và DN nước ngoài.
Dương Công Chiến