Đại biểu Quốc hội: Giao tiền đã công nhận quyền sở hữu thì không ổn
Ảnh minh họa |
Dự thảo Bộ Luật dân sự (sửa đổi) có tổng số 710 điều, được bố cục thành 6 phần, 29 chương. So với Bộ Luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ Luật lần này giữ nguyên 265 điều, sửa đổi 298 điều, bổ sung 174 điều, bãi bỏ 147 điều.
Qua thảo luận ở tổ, nhiều ý kiến đại biểu đề nghị cần làm rõ hình thức sở hữu trong dự thảo Bộ Luật. Đại biểu Trần Xuân Hùng (Hà Nam) và đại biểu Phùng Quốc Hiển (Yên Bái) cho rằng, để cụ thể hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân thì Bộ Luật dân sự cần quy định 3 hình thức sở hữu, bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.
Theo Dự thảo Luật quy định 2 phương án về hình thức sở hữu: Phương án 1 xác định 3 hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung; phương án 2 xác định 2 hình thức sở hữu là sở hữu riêng và sở hữu chung; đồng thời ghi nhận hình thức sở hữu đối với tài sản công thuộc sở hữu toàn dân là sở hữu chung hợp nhất do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Một số ý kiến đại biểu tán thành với phương án 1 cho rằng, nếu chỉ quy định 2 hình thức sở hữu là sở hữu chung và sở hữu riêng là không hợp lý, không thể hiện đầy đủ tính chất "nhiều hình thức sở hữu" của nền kinh tế nhiều thành phần và không bao quát hết các quy định cụ thể về sở hữu trong Hiến pháp (sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân, ...).
Bởi theo quy định của Hiến pháp, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Như vậy, các loại tài sản này thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu. Vì vậy, các văn bản pháp luật, nhất là Bộ Luật dân sự cần phải ghi nhận về sở hữu toàn dân.
Tuy nhiên, các đại biểu chọn phương án 2 cho rằng, việc xác định hình thức sở hữu phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành.
Do đó, chỉ có hai hình thức sở hữu là sở hữu chung và sở hữu riêng. Nhưng, nếu theo phương án này thì cần phân định rõ hình thức sở hữu đối với tài sản công thuộc sở hữu toàn dân là sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý là một hình thức sở hữu độc lập hay thuộc hình thức sở hữu chung.
Xung quanh vấn đề thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản, khoản 3 Điều 179 dự thảo Bộ luật quy định: “Trường hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, trừ trường hợp luật khác có quy định khác”.
Các đại biểu tỏ ra không hài lòng, thậm chí cho rằng Dự thảo Luật đang mở quá rộng khiến nguy cơ luật chuyên ngành “chiếm dụng” cả Bộ Luật dân sự.
Ví dụ với lĩnh vực bất động sản (BĐS), đại biểu Trần Du Lịch (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, thời điểm chứng nhận quyền sở hữu với BĐS phải là thời điểm khai thuế trước bạ, được sự công nhận của Nhà nước đối với tài sản đó chứ không thể đưa ra quy định kiểu “tiền trao cháo múc”, chỉ cần ký cam kết, giao tiền là công nhận quyền sở hữu thì không ổn. Đây là đặc thù nhân thân tài sản, nếu chúng ta dỡ bỏ quy định này thì sẽ khiến nảy sinh tranh chấp và rối loạn xã hội khó kiểm soát được.
Đồng tình với ông Lịch, đại biểu Phạm Văn Gòn (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, trước đây quen mua nhà, xe, tàu thuyền thì phải đăng ký và đóng thuế trước bạ, là chuyển quyền sở hữu từ người nọ sang người kia. Khi xảy ra tranh chấp thì căn cứ vào đó xem đã đóng thuế chưa. Do vậy, phải quy định phải ghi trước bạ thì mới công nhận quyền sở hữu. Luật phải bổ sung cụ thể quy trình chuyển quyền sở hữu.
Đức Nghiêm