Tiềm năng của ACV
Vietjet khai trương 2 đường bay mới từ Hà Nội đến Huế và Đài Bắc |
Tổng công ty cảng Hàng không Việt Nam (ACV) hiện quản lý trực tiếp 22 sân bay ở trong nước đang niêm yết trên thị trường UPCoM. Theo đó, tổng lượng hành khách toàn hệ thống của đơn vị này ước đạt 81 triệu hành khách trong năm 2016 và đứng trong nhóm đầu về quy mô hành khách trong khu vực.
Phải đa dạng dịch vụ phẩm cấp cao cho các cảng hàng không |
Nhận định này được đưa ra dựa trên thông tin của Nielsen, cơ cấu dân số trẻ với thu nhập gia tăng, tầng lớp trung lưu sẽ chiếm 1/2 dân số Việt Nam trong 5 năm tới. Chi phí bay ngày càng “vừa túi tiền” và thời gian di chuyển nhanh sẽ là động lực quan trọng tiếp tục thu hút hành khách đến với phương thức vận chuyển này.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm này thì kết quả kinh doanh của ACV chưa phát triển tương xứng với quy mô hành khách. Số liệu thống kê cho thấy doanh thu sau khi đã trừ chi phí của ACV chỉ bằng 40% của AOT (một đơn vị quản lý các sân bay ở Thái Lan) và chỉ bằng 60% so với đơn vị BHD cùng lĩnh vực kinh doanh của Malaysia, số liệu đến cuối quý III/2016.
Theo giới chuyên môn, điều này một mặt xuất phát từ tỷ trọng hành khách quốc tế qua hệ thống ACV chỉ đạt khoảng 30%, so với AOT 58% và 48% của BHD và giá cước dịch vụ của khách quốc tế cao hơn 3-6 lần khách nội địa.
Một nguyên nhân khác khiến cho kết quả kinh doanh của ACV không được như kỳ vọng đó là sự phát triển còn nhiều hạn chế các dịch vụ đi kèm cho hành khách tại các nhà ga sân bay. Theo tính toán của các nhà phân tích, doanh thu phí hàng không (bao gồm bán hàng) trên hành khách qua hệ thống ACV chỉ đạt 1 USD so với mức trung bình châu Á 10-12 USD, Thái Lan và Malaysia 4-5 USD.
Nhìn qua cách thức vận hành của các đơn vị quản lý trong khu vực, dễ thấy để gia tăng kết quả kinh doanh, các đơn vị quản lý sân bay trong khối ASEAN thường triển khai đầu tư dự án nhà ga sân bay tích hợp bao gồm một loạt các dịch vụ như khu mua sắm, khu lưu trú và dịch vụ ăn uống rất đa dạng.
Như vậy, với định phí chiếm trên 80% trong cơ cấu chi phí sản xuất kinh doanh, thiết nghĩ phát triển tốt các dịch vụ giá trị gia tăng như quảng cáo, cho thuê mặt bằng, dịch vụ ăn uống… mới có thể tạo ra tác động cộng hưởng to lớn đến lợi nhuận của ACV trong tương lai.
Suy cho cùng, hai yếu tố trên vừa là hạn chế vừa cho thấy tiềm năng phát triển ngành hàng không ở Việt Nam nói chung và kết quả kinh doanh của ACV nói riêng còn rất lớn. Bên cạnh tốc độ tăng trưởng khách nội địa dự báo tiếp tục tăng 18-20%/năm, sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc sang Việt Nam cùng với khách du lịch từ nước này kỳ vọng sẽ là động lực tăng trưởng chính cho khối khách quốc tế đến Việt Nam trong các năm tới.
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2016 lần đầu tiên đạt mức 10 triệu khách, trong đó, khách du lịch Trung Quốc (gồm Hong Kong) tăng gần 52% so với cùng kỳ và chiếm gần 27% tổng lượng khách. Bên cạnh đó, đề xuất tăng cước phí các dịch vụ hàng không của ACV, như phục vụ hành khách, hạ cất cánh và soi chiếu an ninh, nhắm đến hành khách nội địa trong năm 2017 cũng là một yếu tố tích cực mà nhiều nhà đầu tư kỳ vọng.
Vấn đề đặt ra đối với ACV là phải gia tăng hiệu quả hoạt động và triển khai nhanh các kế hoạch gia tăng công suất để nắm bắt cơ hội tăng trưởng. Việc cổ phần hóa ACV và các công ty con là bước đi tích cực, đề án này sẽ mang lại hiệu quả nhiều hơn cho cổ đông của ACV nếu quá trình ấy thực sự thay đổi về chất đặt dưới sự giám sát của nhiều cổ đông khác, đồng thời tỷ lệ sở hữu Nhà nước phải giảm sâu hơn. Chỉ có như thế, nhà đầu tư mới có cơ hội để kiếm lời khi quyết định sở hữu cổ phiếu ACV được đánh giá là đầy tiềm năng này…