Tiếp quản thành công nhờ tài dân vận
Khi chiến trường đã im tiếng súng, cả nước hân hoan trong những giờ khắc thống nhất đầu tiên thì cũng là lúc tất cả các bộ, ngành đồng loạt vào cuộc tiếp quản miền Nam, khắc phục hậu quả chiến tranh. Trong khí thế hào hùng ấy, “Đoàn Quân quản K3” làm nhiệm vụ tiếp quản hệ thống ngân hàng đã một lần nữa chứng tỏ rằng chân lý “dĩ dân vi bản” ở bất cứ chế độ nào cũng đều là kim chỉ nam dẫn tới thành công. Và sự thật lịch sử đã chứng minh rằng nếu những ngày đầu giải phóng không có những cán bộ - chiến sĩ ngân hàng tràn đầy nhiệt huyết với sự mưu trí, khôn khéo và linh hoạt thì không ai có thể chắc chắn rằng phải mất bao lâu việc tiếp quản hệ thống ngân hàng dưới chế độ Việt Nam cộng hoà (VNCH) mới có thể thành công.
Các chiến sĩ giải phóng trong những ngày đầu tiếp quản Sài Gòn |
Kế hoạch chuẩn bị đầy gian khổ
Sáng ngày 1/5/1975, trước gần 11.000 nhân viên của hệ thống ngân hàng chế độ VNCH đến trụ sở 17 Bến Chương Dương (nay là số 8 Võ Văn Kiệt - Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh) để trình diện, ông Lữ Minh Châu (Ba Châu) đã chính thức thay y phục “Quân quản K3” đọc lệnh quốc hữu hóa hệ thống ngân hàng và tuyên bố việc chính quyền cách mạng sẽ tiếp quản các quyền lợi và nghĩa vụ của hệ thống ngân hàng cũ tại Sài Gòn.
Những người chứng kiến ông Châu thời khắc đọc tờ lệnh này tỏ ra vô cùng nghi hoặc. Bởi trước đó, trong giới tài chính, ngân hàng trên đất Sài Gòn – Gia Định, ông Ba Châu đã không còn xa lạ với cái tên Nguyễn Văn Thảo. Không ai có thể ngờ rằng chính người Thư ký Hội đồng quản trị của Ngân hàng Sài Gòn Tín Dụng vẫn thường xuất hiện ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn này, giờ đây lại được cử làm Trưởng ban tiếp quản các ngân hàng ở khu vực Sài Gòn và không ai ngờ rằng trước đó 5 năm, đã có một kế hoạch vô cùng mạo hiểm mà ông Ba Châu là người trực tiếp thực hiện. Đó là kế hoạch trà trộn vào giới tài chính ở Sài Gòn để âm thầm nắm rõ hệ thống ngân hàng và xây dựng cơ sở mật tạo thuận lợi cho hoạt động vận chuyển tiền từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Ông Phạm Văn Hài |
Trở lại những ngày đầu tháng 4/1970, sau sự kiện đảo chính Lonnol tại Campuchia, hoạt động của Ban Tài chính đặc biệt (N.2683) bị ngừng lại. Mặc dù toàn bộ số tiền cất giấu trước đó đã được vận chuyển an toàn về căn cứ của Trung ương Cục miền Nam tại Tây Ninh nhưng do cơ sở tại Sài Gòn đã bị lộ, phương pháp chuyển tiền FM (chuyển tiền điện tử thông qua nghiệp vụ thanh toán của các ngân hàng tại Sài Gòn) không còn thực hiện được. Lúc này, đích thân ông Phạm Hùng (lúc đó là Bí thư Trung ương Cục miền Nam) đã giao nhiệm vụ cho ông Ba Châu bí mật vào Sài Gòn tổ chức lại mạng lưới.
Khi vào được Sài Gòn với thẻ căn cước công dân VNCH Nguyễn Văn Thảo, ông Ba Châu lập tức đi học lớp đào tạo nghiệp vụ ngân hàng ngắn hạn do Ngân hàng Quốc gia (NHQG) tổ chức với kế hoạch xin việc tại một ngân hàng ở Sài Gòn. Một thời gian sau, ông chính thức trở thành Thư ký Hội đồng quản trị rồi trở thành Giám đốc chi nhánh của Ngân hàng Sài Gòn Tín Dụng. Với các vị trí “vỏ bọc” này từ năm 1970 đến trước tháng 3/1975, ông Lữ Minh Châu đã âm thầm tìm hiểu toàn bộ hệ thống ngân hàng tại Sài Gòn. Ông liên tục đi lại các chi nhánh ngân hàng thuộc khu vực các tỉnh Đông và Tây Nam bộ để kết nối các cơ sở hoạt động ngầm. Phương pháp chuyển tiền FM theo đó được nối lại. Dòng đô la Mỹ biến hóa thành tiền Sài Gòn chuyển vào chiến trường được tiến hành vô cùng thuận lợi.
Công việc của ông Ba Châu và các đồng đội trong Ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam vẫn đang trôi chảy thì giữa tháng 3/1975, chiến dịch giải phóng Buôn Mê Thuột thành công. Từ thắng lợi lớn này, Đảng quyết tâm hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc sớm hơn dự định. Ông Ba Châu một lần nữa được Trung ương Cục gọi lên, giao nhiệm vụ trở thành đầu mối, bí mật nắm chắc hệ thống ngân hàng tại Sài Gòn, đặc biệt là NHQG, bộ máy phát hành tiền, kho tiền và kim khí quý… để chuẩn bị đón quân Giải phóng vào tiếp quản.
Nhịn đói tiến về Sài Gòn
Về tới Sài Gòn từ căn cứ Trung ương Cục miền Nam, ông Ba Châu vô cùng vui mừng trong niềm hân hoan dồn nén chuẩn bị đến ngày tiếp quản. Trong vỏ bọc của một giám đốc chi nhánh ngân hàng tại Sài Gòn, ông đi lại liên tục các khu vực Cần Thơ, Mỹ Tho, Vũng Tàu, bí mật tiếp xúc với các đồng chí trong đơn vị công tác của mình nhằm chuẩn bị cho kế hoạch đón đoàn quân tiếp quản.
Trong khi đó, tại Trung ương Cục miền Nam, ngày 10/4/1975, Ủy ban Quân quản được thành lập. Trung ương trực tiếp chỉ thị các đơn vị thuộc Ban Kinh tài gấp rút chuẩn bị các công tác phục vụ tiếp quản Sài Gòn. Đơn vị Ngân khố C32 được phân công trên danh nghĩa “Ban Quân quản K3” làm nhiệm vụ tiếp quản hệ thống ngân hàng tại các khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn – Gia Định. Ông Ba Châu được cử làm Trưởng đoàn Quân quản, ông Trần Quang Dũng (Ba Dũng, C Phó C32) giữ chức vụ Phó đoàn. Các ông Lý Hồng, Nguyễn Thành Nguyên, Phạm Văn Hài, Nguyễn Văn Giàu… lần lượt được bố trí làm ủy viên, chịu trách nhiệm tổ chức anh em cán bộ C32 chuẩn bị hành quân tiến về Sài Gòn.
Ông Nguyễn Thành Nguyên |
Rạng sáng ngày 29/4/1975 Đơn vị Quân quản K3 nhận được lệnh hành quân sau gần 20 ngày rậm rịch chuẩn bị. “Chủ trương ở trên giao xuống là ta quyết chiến thắng để giải phóng Sài Gòn còn địch thì quyết tử thủ. Vì thế không chỉ đơn giản là về tiếp nhận mà K3 phải chuẩn bị sẵn tinh thần cùng bám trụ, cùng chiến đấu, có thể là hy sinh” – ông Nguyễn Thành Nguyên, một cán bộ trong đoàn Quân quản K3 kể lại.
Khi bắt đầu di chuyển từ căn cứ Đồng Ban (Tây Ninh), đoàn Quân quản K3 được phân công đi cùng với các đơn vị bộ đội và khối Dân chính Đảng trong căn cứ bao gồm các ngành Tài chính, Ngân hàng, Thương nghiệp, Nông nghiệp, Giao bưu... Riêng lực lượng tiếp quản của K3 gồm 3 trung đội được phân công trên 3 xe jeep, 1 xe tải được trang bị vũ khí và lương thực.
Ngày đầu tiên đoàn tiếp quản đi trong tiếng súng và phi cơ chiến đấu với tốc độ chậm vì luôn phải để ý thăm dò tình hình. Khi về tới Dầu Tiếng (thuộc địa bàn tỉnh Tây Ninh) cuộc chiến giữa quân Giải phóng và quân đội VNCH vẫn diễn ra ác liệt, đoàn đành phải nghỉ lại qua đêm.
“Lúc đấy ai cũng có một chiếc đài ba pin nhỏ, luôn bật để nghe ngóng tin tức. Khoảng sáng ngày 30/4 thì bắt đầu nhận được tin Dương Văn Minh đã chính thức tuyên bố đầu hàng. Thế là không quản giờ giấc gì nữa, tất cả các xe đều mở hết tốc lực tiến thẳng về phía Sài Gòn. Về đến Ngã tư Bảy Hiền (thuộc địa phận quận Tân Bình hiện nay-PV) thì đã khoảng 5 giờ chiều. Lúc đó một số anh em đã “cài” sẵn trong Sài Gòn ra đón, ai cũng vui mừng quên cả ăn uống. Nên đến lúc đặt chân đến Trường Kỹ thuật Cao Thắng để họp tổng kết chuyến hành quân thì lương thực mang theo đã đều thiu hỏng, cả đoàn đành nhịn đói chờ sáng hôm sau bắt đầu tiếp quản hệ thống ngân hàng”- ông Nguyên nhớ lại.
Phương châm “thay ruột giữ vỏ”
Sáng ngày 1/5, Đoàn Quân quản K3 từ Trường Kỹ thuật Cao Thắng (nằm trên đường Huỳnh Thúc Kháng, quận 1) di chuyển đến tiếp quản NHQG Việt Nam. Theo lời kể của một số cán bộ thuộc Ban Ngân khố C32, ngay trong buổi tối ngày 30/4 Ban Quân quản K3 đã phát lệnh triệu tập toàn thể công chức, viên chức cũ thuộc hệ thống ngân hàng tại thành phố yêu cầu sáng 1/5 đến trụ sở NHQG nghe chủ trương mới.
Sáng hôm sau, có khoảng gần 11.000 cán bộ, nhân viên thuộc 22 ngân hàng trong nước và 14 ngân hàng nước ngoài đến trình diện tại trụ sở NHQG. Sau khi nghe Trưởng đoàn tiếp quản Lữ Minh Châu đọc lệnh và công bố quyền điều hành của Ban Quân quản K3, lập tức các bộ phận trong đơn vị quân quản tiếp cận các ngân hàng tiến hành khóa sổ kho quỹ, tiếp nhận hồ sơ nhân sự và sổ sách tài liệu.
Nhận thức được việc sử dụng lại nguồn nhân lực của các ngân hàng chế độ cũ là điều cần thiết quyết định đến thành công của việc tiếp quản, ngay ngày 1/5 Ban Quân quản K3 tổ chức hội nghị quán triệt “Chính sách 10 điểm” của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Tại hội nghị này, hầu hết cán bộ, nhân viên của các ngân hàng đều đến tham dự. Từ chỗ hoang mang lo ngại, nhiều người bắt đầu tỏ thái độ tôn trọng rồi hợp tác một cách rất chân thành và đầy thiện chí với Ban Quân quản K3.
“Lúc đó Ban Quân quản K3 chỉ có 3 trung đội, trong đó 1 trung đội là cán bộ ngân hàng có nghiệp vụ, vì thế nếu không tận dụng được đội ngũ cán bộ cũ của các ngân hàng tại Sài Gòn thì không thể tiếp quản hết hệ thống gần 400 chi nhánh ngân hàng với rất nhiều hồ sơ, tài liệu và tiền bạc. Do đó, ngay từ đầu anh em trong Ban Quân quản đã quán triệt khi đến tiếp quản chỗ nào thì đều phải xử lý thấu tình đạt lý. Tất cả những nhân viên cũ muốn ở lại làm việc đều được giải quyết nhanh chóng để không gây ra xáo trộn lớn” - ông Phạm Văn Hài, một cán bộ Đoàn Quân quản K3 cho biết.
Trong khi đó, ông Nguyễn Thành Nguyên, người trực tiếp tiếp quản hệ thống sổ sách kế toán của các ngân hàng tại Sài Gòn cho rằng: “Anh em cán bộ ngân hàng cũ lúc đầu họ còn dè dặt. Sau đó thấy mình (tức cán bộ Đoàn Quân quản K3-PV) đối xử tử tế, không hách dịch, kẻ cả nên họ bắt đầu hợp tác. Bao nhiêu tài liệu, tiền bạc, hồ sơ giấy tờ cất ở đâu, còn thiếu chỗ nào họ đều giúp mình nắm lại hết”.
Chính nhờ sử dụng lại đội ngũ nhân lực của các ngân hàng cũ chỉ một tuần sau ngày Giải phóng tất cả các ngân hàng trên địa bàn Sài Gòn đã hoạt động trở lại bình thường. Hầu hết các hồ sơ, tài liệu đều không bị mất mát. Các quyền lợi nghĩa vụ theo hợp đồng đều được thông báo do Ban Quân quản kế thừa tiếp nhận. Vì thế không chỉ các ngân hàng trong nước mà cả các ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Sài Gòn thời điểm đó đều khá hài lòng và hợp tác chặt chẽ với Ban Quân quản K3.
Một góc tòa nhà NHQG Việt Nam (chụp lại từ ảnh tư liệu tại Thư viện quốc gia TP. Hồ Chí Minh) |
Gần một tháng sau ngày Giải phóng, nhu cầu rút tiền gửi tiết kiệm của nhân dân và tiền gửi thanh toán của các tổ chức bắt đầu thúc bách Chính phủ Cách mạng Lâm thời cần phải thành lập một ngân hàng mới để thực hiện tiếp nhận và giải quyết tất cả các nghĩa vụ, quyền lợi mà các ngân hàng cũ để lại. Trong bối cảnh đó nhằm đáp ứng yêu cầu cả đối nội, đối ngoại hài hòa ngày 6/6/1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra Nghị định thành lập ngân hàng lấy lại tên cũ là NHQG Việt Nam. Ông Trần Dương được bổ nhiệm làm Thống đốc. Tiếp sau đó, NHQG Việt Nam tiếp tục ra quyết định thành lập NHQG Sài Gòn – Gia Định và bổ nhiệm ông Lữ Minh Châu làm Giám đốc.
Bằng việc lấy lại tên gọi cũ và sử dụng lại hầu như toàn bộ đội ngũ nhân sự của các ngân hàng tại Sài Gòn trước đó, NHQG Việt Nam đã kế tục được vai trò hội viên của chính quyền thuộc chế độ cũ tại các tổ chức tài chính quốc tế IMF, WB, ADB... nhằm tiếp thu và bảo vệ vốn mà chính quyền cũ đã đóng góp trước đây. Đồng thời tranh thủ những khoản tín dụng của IMF, WB mà NHQG cũ chưa sử dụng đến như một thành quả của cách mạng mới giành được.
Điều quan trọng, chính là cảm quan chính trị nhạy bén khi quyết định lấy tên gọi NHQG đã mở ra cánh cửa mới đưa nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào vị trí hội viên chính thức của các tổ chức tài chính quốc tế quan trọng vào tháng 9/1976. Đặt nền tảng cho việc những năm sau đó, Chính phủ tiến hành thống nhất tiền tệ chung của cả nước và chuyển đổi toàn bộ hệ thống ngân hàng từ mô hình một cấp sang mô hình hai cấp, vận hành theo cơ chế thị trường kéo dài cho đến hiện nay.
Ông Phạm Văn Hài, nguyên cán bộ Đoàn Quân quản K3: “Ngay từ đầu anh em trong Ban Quân quản đã quán triệt khi đến tiếp quản chỗ nào thì đều phải xử lý thấu tình đạt lý. Tất cả những nhân viên cũ muốn ở lại làm việc đều được giải quyết nhanh chóng để không gây ra xáo trộn lớn”. Ông Nguyễn Thành Nguyên, nguyên cán bộ Đoàn Quân quản K3: “Anh em cán bộ ngân hàng cũ lúc đầu họ còn dè dặt. Sau đó thấy mình (tức cán bộ Đoàn Quân quản K3-PV) đối xử tử tế, không hách dịch, kẻ cả nên họ bắt đầu hợp tác. Bao nhiêu tài liệu, tiền bạc, hồ sơ giấy tờ cất ở đâu, còn thiếu chỗ nào họ đều giúp mình nắm lại hết”. |
Thạch Bình
(Ghi theo lời kể của các ông Nguyễn Thành Nguyên, Phạm Văn Hài, Nguyễn Văn Giàu, Hoàng Xuân Tùng – nguyên cán bộ Ban Quân quản K3)