Trên những nấc thang phát triển
Từ thuở sơ khai
Sự ra đời của NHQGVN năm 1951 không chỉ đánh dấu sự hiện diện một ngân hàng thuộc Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á, mà hơn thế còn gánh trên vai cả hai sứ mệnh quan trọng: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc đồng thời thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh với địch.
Trụ sở NHNN Việt Nam. (Ảnh: MH)
Thế rồi tùy theo diễn tiến lịch sử và sứ mệnh, NHQGVN lại chuyển đổi mô hình cho phù hợp. Vẫn còn đó, những dấu ấn một thời của mô hình "hợp tác xã tín dụng" giai đoạn 1954-1964 làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn miền Bắc hay sự chuyển đổi hình thức cung ứng dịch vụ tín dụng trực tiếp thay cho việc cung ứng gián tiếp thông qua mạng lưới thương nghiệp quốc doanh đã làm nên những nền tảng ban đầu cho một miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Vai trò trợ lực dựng xây xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn cùng tính độc lập của NHQGVN cũng ngày được mở rộng. Từ một đơn vị phụ thuộc hoàn toàn vào sự chỉ đạo của Chính phủ, NHQGVN đã trở thành một đơn vị độc lập có tính tự chủ vào năm 1959 khi áp dụng Quyết định 54/TTg ngày 19/12/1954 của Thủ tướng Chính phủ xóa bỏ chế độ bao cấp hoàn toàn, thay vào đó DN sẽ phải chủ động tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng.
Không chỉ gánh trên vai như một chế tài tiền tệ - ngân hàng thời chiến, ngày ấy ngành Ngân hàng còn mang một trách nhiệm vô cùng vẻ vang nữa khi là cơ quan tài chính thứ 2, vừa như cơ quan thủ quỹ của toàn nền kinh tế. Đến ngày hòa bình lập lại, sứ mệnh ngành Ngân hàng càng nặng nề hơn khi gánh thêm trách nhiệm tiếp quản Ngân hàng Quốc gia của chế độ Việt Nam Cộng hòa và các ngân hàng tư nhân, ngân hàng nước ngoài vào NHNN Việt Nam; trở thành nền tảng cho việc mở đầu quá trình nhất thể hóa của hoạt động ngân hàng trên toàn quốc theo cơ chế nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Đến một hệ thống cung ứng vốn chủ lực
Năm 1986, sự chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường đặt lên vai ngành Ngân hàng những trọng trách mới. Mô hình ngân hàng đã trở thành hai cấp trong đó tách riêng chức năng quản lý cho NHNN và hình thành nên khối các NHTM gánh trách nhiệm kinh doanh tiền tệ, tín dụng.
Hệ thống ngân hàng ngày càng được hoàn thiện hơn từ sau khi Luật NHNN Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/1998 đặc biệt là trong lần sửa đổi mới đây. Cơ cấu bộ máy của NHNN tiếp tục được hoàn thiện trên hai phương diện: Tập trung hóa và chuyên môn hóa việc quản lý Nhà nước và điều hành chính sách tiền tệ theo phương thức nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích, dự báo của các đơn vị tại trụ sở chính; Phân cấp và cơ cấu lại hệ thống NHNN theo hướng hình thành từng bước các điều kiện cần thiết để thiết lập nên các trung tâm NHNN khu vực. Dưới sự quản lý và điều hành của NHNN, hệ thống các TCTD ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và mô hình, thực sự trở thành ngân hàng của toàn dân, không phân biệt thành phần kinh tế, giữ vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, việc đẩy mạnh quan hệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ mang về thêm những dòng vốn phục vụ phát triển kinh tế mà còn góp phần nâng cao vai trò vị thế của Ngành và của Việt Nam tại các tổ chức diễn đàn quốc tế. Hầu hết các tổ chức tiền tệ quốc tế như: WB, IMF, ADB, Hiệp hội Quốc gia Đông Nam Á, ASEAN+3, diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á- Âu… đến nay, đều có những hoạt động đối ngoại song phương và đa phương với ngành Ngân hàng, chưa kể với hơn 165 NHTW các châu lục cũng đã được NHNN Việt Nam thiết lập quan hệ tốt đẹp.
Bước tiếp những nấc thang lịch sử
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế, năm 2011, một lần nữa vấn đề đổi mới nền kinh tế lại được đặt ra. Thêm một lần xác định đổi mới để hoàn thiện mình đi tiếp trên chặng đường hội nhập kinh tế đã chọn, ngành Ngân hàng trở thành một trong ít những ngành đi đầu trong công cuộc tái cấu trúc với bản Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 1/3/2012.
Tính bền vững của Đề án này được thể hiện bằng quan điểm tái cấu trúc không chỉ mang tính thời điểm mà xem việc cơ cấu lại hệ thống các TCTD và từng TCTD là một quá trình thường xuyên, liên tục nhằm khắc phục những khó khăn, yếu kém. Đồng thời chủ động đối phó với những thách thức để phát triển một cách an toàn, hiệu quả, vững chắc và đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Kèm theo đó, đề án trọng tâm vào việc củng cố, phát triển hệ thống các TCTD đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vai trò trụ cột trong hệ thống sẽ vẫn dành cho các ngân hàng lớn hoạt động lành mạnh, có khả năng cạnh tranh trong khu vực đồng thời có những ngân hàng vừa và nhỏ, TCTD phi ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của mọi tầng lớp trong xã hội. Phấn đấu đến năm 2015 hình thành được 1 - 2 NHTM Nhà nước đạt trình độ khu vực về quy mô, quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh. Công cuộc cổ phần hóa các NHTM Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh, trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được thực hiện cổ phần hóa vào thời điểm thích hợp và đảm bảo Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối tại các NHTM Nhà nước sau cổ phần hóa.
Xa hơn, ngành Ngân hàng cũng đã xây dựng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2020 với những chuẩn mực tiến gần hơn với hệ thống ngân hàng khu vực và quốc tế. Trên con đường tương lai ấy, những nỗ lực bền bỉ của cán bộ ngành Ngân hàng và ý chí của những nhà lãnh đạo đặc biệt là sự chèo lái của vị thuyền trưởng Ngành sẽ không chỉ đưa ngành Ngân hàng cán đích những lộ trình đã đề ra mà còn đi xa hơn tiếp sức mạnh hơn cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng cùng thế giới.
Hồng Nhật