Tự do hóa lãi suất: Chưa phải thời điểm chín muồi
Ông nhận định thế nào về việc NHNN “mạnh dạn” cho phép các ngân hàng tự thỏa thuận lãi suất huy động tại kỳ hạn từ 12 tháng trở lên?
Theo tôi, việc thả nổi này có hai ý sâu xa. Thứ nhất, đây có thể là bước tập dượt để thực hiện lãi suất thị trường tức là thả nổi chứ không dùng mệnh lệnh hành chính nữa. Thứ hai, NHNN muốn khoảng cách giữa huy động vốn ngắn hạn và huy động vốn trung dài hạn thu hẹp lại. Qua đó, khắc phục tình trạng lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn suốt mấy năm qua. Hơn thế việc "thả nổi" lãi suất trung, dài hạn sẽ đưa đường cong lãi suất trở về bản chất vốn có tức là kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Theo tôi, cái gốc của Thông tư 19/2012/TT-NHNN là như vậy.
Tuy nhiên, cũng có ngân hàng đẩy lãi suất huy động kỳ hạn trên 12 tháng lên khá cao?
Đúng là sau Thông tư 19/2012/TT-NHNN cho phép các TCTD ấn định lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên trên cơ sở cung – cầu đã xuất hiện hiện tượng một số NHTM đã có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ví như một số ngân hàng thiết kế nhiều sản phẩm tiết kiệm linh hoạt, trên giấy tờ là huy động dài hạn từ 12 - 24 tháng nhưng lại kèm theo nội dung là khách hàng được rút trước hạn và được hưởng mức lãi suất theo thỏa thuận có thể là 12% hay 13, 14%/năm... Bằng cách này hay cách khác họ đã hợp lý hóa "chính sách" để lách luật. Điều này sẽ gây ra hệ lụy có hiện tượng khách hàng rút tiền từ ngân hàng nọ sang ngân hàng kia gửi đẩy thị trường vốn đầu vào lên và như thế đầu ra buộc phải cao. Nếu lãi suất cho vay cao hơn nữa thì không DN làm ăn chân chính nào chịu nổi. Với mặt bằng lãi suất cho vay từ 9 đến 13%/năm trong thời điểm này là chấp nhận được, bởi đối với bất cứ DN nào bây giờ kiếm được 10% lợi nhuận sau khi trừ chi phí cũng là giấc mơ trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, ngay khi có dấu hiệu lách trần, NHNN đã có văn bản chấn chỉnh và có thể sẽ có những đợt thanh tra một số ngân hàng đã vượt rào theo kiểu kỹ thuật như vậy. Từ đó, đưa hoạt động của hệ thống ngân hàng thực hiện theo đúng quỹ đạo. Bởi nếu không chấn chỉnh kịp thời thì có thể tạo nên một trào lưu và gây xáo trộn trên thị trường.
Qua đó cũng cho thấy, nếu trên thị trường vẫn còn những ngân hàng, DN gỡ khó bằng mọi giá thì việc đưa về quy luật vốn có của thị trường là lãi suất do chính thị trường quyết định chưa thể thực hiện. Mặt khác, cũng cho thấy thanh khoản của các ngân hàng chưa thực sự ổn định. Theo tôi, quyết định thả nổi lãi suất trung, dài hạn của NHNN để kiểm tra sức khỏe của các ngân hàng đủ vững để hấp thụ mặt bằng lãi suất thấp, đã có câu trả lời là chưa thể. Cho nên, trong thời gian trước mắt vẫn phải cần những biện pháp hành chính.
Ông lý giải về việc lãi suất trái phiếu và lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng mạnh sau khi Thông tư 19 có hiệu lực?
Thực tế, sau khi thả nổi lãi suất trung, dài hạn, lãi suất trái phiếu và liên ngân hàng tăng mạnh. Nguyên do một phần là có ngân hàng “bóp méo” chính sách tìm cách hút tiền bằng lãi suất cao khiến lượng người gửi lãi suất thấp giảm đi. Do vậy, để hút tiền vào trái phiếu Chính phủ phải cạnh tranh theo lãi suất thị trường 1. Theo đó, đẩy lãi suất trái phiếu lên mặt bằng mới. Các ngân hàng lại “vin” lãi suất trái phiếu để tiếp tục đẩy lãi suất huy động lên cao. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất ngân hàng buộc phải tăng theo. Hai thị trường này cứ nhìn nhau và dẫn đến cuộc tranh đua. Điều này dẫn đến hệ quả đầu vào cao tức là chi phí đầu vào của nền kinh tế tăng. Sâu xa hơn, đây có thể là nguyên nhân gây lạm phát cầu kéo và chi phí đẩy.
Chính vì vậy, NHNN một mặt phải chấn chỉnh lại hoạt động huy động vốn của các NHTM có dấu hiệu vi phạm, mặt khác tiếp tục kéo mặt bằng lãi suất xuống trong đó xem xét vốn thị trường mở và liên ngân hàng.
DN làm ăn tốt vẫn tiếp cận được vốn rẻ . Ảnh: Quang Hữu
Hiện các DN vẫn kêu không tiếp cận được vốn rẻ của các ngân hàng, quan điểm của ông như thế nào?
Trước tiên cần khẳng định, những ai được vay với mức lãi suất thấp. Đó phải là những doanh nghiệp làm ăn có lãi thực sự, thanh khoản tốt. Như thời điểm này, lãi suất cho vay thấp nhất tại LienVietPostBank là 10,8%/năm giảm 0,2%/năm so với tuần trước. Chúng tôi đã giải ngân 3.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay 11%/năm. Tuy nhiên, là với nền kinh tế ngày càng khó khăn và sức khỏe của DN ngày càng yếu như vậy thì khó có thể hấp thụ được “gói vốn” tốt được. Hiện chúng tôi cũng đang tiếp tục dành thêm khoảng 1.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay 10,8%/năm. Có thể việc cho vay với lãi suất thấp ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng nhưng dù sao vẫn thu hồi được tiền về. Còn hơn là cho vay lãi cao nhưng khả năng mất vốn cao với những doanh nghiệp yếu.
Theo ông, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng phải ở mức bao nhiêu để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 6 – 6,5%. Và với những gì đang diễn ra, liệu có đạt được mục tiêu đề ra?
Tôi nghĩ tăng trưởng tín dụng ở mức 17%/năm như mục tiêu đã đề ra là vừa. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu trên thời điểm này không phải là dễ. Bởi có những ngân hàng được tăng trưởng 17% nhưng họ lại không có “nguồn”. Còn có ngân hàng có “nguồn” nhưng chỉ được tăng trưởng 8% thôi hoặc không được tăng trưởng… Thế nên, để đạt 17% thì phải có ngân hàng trên 20% và có ngân hàng chỉ 6-7% thì mức bình quân mới đạt được 17-18%... Chính vì vậy, để đạt mục tiêu đề ra cần phải giao chi tiêu theo kiểu “mấp mô” thì cung – cầu vốn mới gặp nhau nhiều hơn. Có như vậy mới đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế.
Phương Thảo thực hiện