VASEP kiến nghị cân nhắc các quy định đối với cá tra
Ảnh minh họa |
Theo đó, sau khi phân tích những khó khăn, thách thức trên thị trường quốc tế, VASEP kiến nghị có quy định linh hoạt, mềm dẻo hơn và có lộ trình để các DN có thời gian chuẩn bị thích ứng với quy định mới.
Cụ thể, VASEP đã kiến nghị Bộ NN&PTNT không quy định cụ thể về mức hàm ẩm tối đa là 83% và tỷ lệ 10%, thay vào đó Bộ quy định cụ thể hàm ẩm tối đa là 86% như một quy định sàn bắt buộc cho tất cả các thị trường trong năm 2015. Sau đó, quy định về tỷ lệ hàm ẩm tối đa sẽ giảm dần theo lộ trình hàng năm căn cứ vào phản ứng của thị trường cho đến khi đạt được chỉ tiêu chất lượng phù hợp cho mọi thị trường.
Đồng thời, Hiệp hội kiến nghị không quy định một con số cứng về tỷ lệ mạ băng mà nên tùy thuộc vào nhu cầu của từng thị trường. Để có cơ sở xử lý gian lận thương mại cần quy định bắt buộc DN tuân thủ luật ghi nhãn hàng hóa về trọng lượng tịnh sản phẩm xuất khẩu giống như đang được áp dụng theo quy định ghi nhãn của Liên minh châu Âu.
Còn đối với việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu mục tiêu là nhằm tạo cơ sở dữ liệu để kiểm soát được sản lượng và giá mua nguyên liệu làm cơ sở để điều tiết sản lượng theo cung cầu đồng thời kiểm soát được tình trạng tăng giảm giá cá nguyên liệu thất thường, bảo vệ quyền lợi cho người nuôi.
Tuy nhiên, sau gần 6 tháng thực hiện việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu và cơ quan quản lý chỉ mới thống kê sản lượng thông qua đăng ký hợp đồng xuất khẩu nhưng chưa kê khai giá mua nguyên liệu.
Cụ thể, về khai sản lượng, VASEP cho biết, thông thường khi khai báo Hải quan làm thủ tục xuất khẩu cho phép DN được khai báo chênh lệch số lượng ± 10% do đó DN sẽ thường khai nâng lên con số thực tế và đăng ký với Hiệp Hội đề phòng thay đổi số lượng vào phút cuối khi có yêu cầu từ khách hàng thay đổi hợp đồng hoặc do khả năng chứa hàng của container khi xuất hàng. Số lượng xuất khẩu chính xác chỉ có được khi cơ quan Hải Quan thanh khoản tờ khai xuất khẩu. Do đó, việc kê khai số lượng khi đăng ký hợp đồng đã không thể hiện con số chính xác để các cơ quan làm cơ sở quản lý sản lượng.
Về giá sàn nguyên liệu, thực tế cho thấy hơn 70% sản lượng cá tra đã được nhà máy tổ chức nuôi, quản lý theo các tiêu chuẩn nuôi an toàn theo chuỗi. Ngành công nghiệp cá tra không còn những hộ nuôi nhỏ lẻ mà đã hình thành những mô hình liên kết vì quyền lợi của các bên. Vì vậy, việc khai báo giá cá tra nguyên liệu thu mua không còn ý nghĩa bảo vệ quyền lợi cho người nuôi như ban đầu.
Hơn nữa, việc quy định giá sàn thu mua trên cơ sở tính giá thành nuôi cá là đi ngược lại với quy luật thị trường và có thể tạo tâm lý ỷ lại, thiếu tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường sản xuất nguyên liệu. Thêm vào đó, việc quy định giá sàn đưa ra theo mùa vụ sẽ khiến thị trường thiếu linh hoạt và không phản ánh kịp thời biến động giá nguyên liệu vốn bị chi phối mạnh mẽ bởi sự đa dạng của thị trường tiêu thụ thế giới.
Về mặt thủ tục hành chính: Mặc dù Hiệp hội cá tra đã nỗ lực để việc thực hiện đăng ký xuất khẩu diễn ra thuận lợi nhất cho DN; tuy nhiên qua gần 6 tháng thực hiện DN nhận thấy sự bất cập của hệ thống đăng ký khi DN phải đăng ký theo phương thức truyền thống. Việc này gây ra sự ách tắc trong xuất khẩu như trễ lịch tàu chạy khi thủ tục bị chậm hoặc khó khăn khi thay đổi số lượng hàng hóa trong nhiều trường hợp hợp đồng thay đổi. DN phải cộng thêm chi phí nhân viên chuyên lo thủ tục đăng ký. Ngoài ra vì do các hợp đồng XK đều phải đăng ký với Hiệp hội cá tra và phải xuất trình khi làm thủ tục hải quan XK nên khi đăng ký mở tờ khai hải quan đều bị đưa vào luồng vàng để hải quan kiểm tra tất cả hồ sơ, gây mất rất nhiều thời gian cho DN khi thông quan.
Đó là những bất cập đang diễn ra sau khi Nghị định 36 chính thức có hiệu lực. Bởi vậy, VASEP kiến nghị Bộ NN&PTNT xem xét bãi bỏ quy định thu mua theo giá sàn, bãi bỏ thủ tục đăng ký Hợp đồng xuất khẩu cá tra. Trên thực tế việc kê khai sản lượng trước khi xuất khẩu cá tra đã được thực hiện theo quy trình của Hải quan một cách hết sức chặt chẽ và chính xác, tiến đến đăng ký và khai báo Hải quan một cửa trên toàn quốc, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN xuất khẩu trong tiến trình hội nhập và hết sức cạnh tranh hiện nay.