VCCI: Năng lực sử dụng nguồn vốn của các doanh nghiệp đang có xu hướng giảm
Tỷ lệ quay vòng vốn trong các doanh nghiệp Sản xuất đồ uống luôn thấp nhất và không khi nào vượt quá 0,8 lần trong giai đoạn 2007 - 2011.
Thông tin này được nêu rõ trong Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 2012 đang được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức công bố sáng nay (ngày 18/4/2013) tại Hà Nội.
Chủ đề năm là "Chặng đường 10 năm phát triển và năng lực tiếp cận thị trường". Báo cáo đã lựa chọn ra 6 ngành tiêu biểu để phân tích là: Chế biến thủy sản, Sản xuất đồ uống, Sản xuất cấu kiện kim loại, Bán lẻ thực phẩm đồ uống, Quảng cáo, Giới thiệu xúc tiến thương mại.
Theo VCCI, ngành Chế biến thủy sản luôn có chỉ số thanh khoản kém nhất trong số 6 ngành nghiên cứu. |
Theo đánh giá, một điểm chung của 6 ngành này là đêu có sự tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp, về lao động, về tài sản và vẻ doanh thu với các mức độ khác nhau. Các doanh nghiệp trong các ngành này có xu hướng ngày càng thu hẹp quy mô lao dộng, nhưng tăng trưởng quy mô vốn.
Năng lực lao động: Ngành có hiệu suất sử dụng lao động cao nhất trong số 6 ngành lựa chọn là Bán lẻ thực phẩm đồ uống, thấp nhất là ngành Giới thiệu xúc tiến thương mại (XUM).
Trong giai đoạn 2007 - 2011, ngoài ngành sản xuất cấu kiện kim loại có hiệu suất sử dụng lao động tăng 4%/năm, 5 ngành còn lại đều có hiệu suất sử dụng lao động khổng đổi hoặc giảm đi, nhất là trong ngành Quảng cáo, giảm -9,3%/năm.
Như vậy, hiệu quả sử dụng lao động trong các ngành nghiên cứu đang gặp vấn đề khi mà hiệu suất sử dụng lao động đã không được cải thiện.
Năng lực tài chính: Chỉ số thanh khoản của các doanh nghiệp trong 6 ngành lựa chọn đều có xu hướng giảm đi trong giai đoạn 2007 - 2010, trước khi được cải thiện rõ rệt vào năm 2011.
Ngành Chế biến thủy sản luôn có chỉ số thanh khoản kém nhất trong số 6 ngành nghiên cứu. Toàn bộ 6 ngành lựa chọn nghiên cứu đều có chỉ số nợ không thỏa mãn giá trị kỳ vọng chuẩn, và đang có xu hướng tăng lên, phản ánh tình trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng phụ thuộc vào nguồn vốn nợ bên ngoài.
Năng lực sử dụng vốn: Năng lực sử dụng vốn của các ngành nghiên cứu đều có xu hướng giảm trong giai đoạn 2007 - 2011, trong đó giảm mạnh nhất ở 2 ngành Bán lẻ thực phẩm đổ uống và Quảng cáo.
Đây là một thực trạng đáng báo động về hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua. Bán lẻ thực phẩm đồ uống luôn là ngành có tỷ lệ quay vòng vốn cao nhất trong số 6 ngành nghiên cứu, tiếp đến là ngành Chế biến thủy sản.
Tỷ lệ quay vòng vốn trong các doanh nghiệp Sản xuất đồ uống luôn thấp nhất và không khi nào vượt quá 0,8 lần trong giai đoạn 2007 -2011.
Năng lực sinh lợi: Tỷ lệ các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong 6 ngành đều tăng mạnh trong năm 2011, nhất là trong 3 ngành thương mại dịch vụ. Hai ngành Giới thiệu XTTM và sản xuất cấu kiện kim loại có hiệu suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) giảm trong giai đoạn 2007 - 2011.
Ngành Sản xuất cáu kiện kim loại không những có ROA giảm, mà còn là ngành có ROA thấp nhất trong số 6 ngành nghiên cứu, chỉ đạt 2,8%.
Ngành có ROA cao nhất là Chế biến thủy sản 8%, tiếp đến là các ngành Quảng cáo và Giới thiệu xúc tiến thương mại, khoảng 6%. Ngành Sản xuất đồ uống thường là ngành có hiệu suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS) cao nhát trong giai đoạn 2007 - 2011.
Ngành Sản xuất cấu kiện kim loại tiếp tục là ngành có ROS thấp nhất, cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này có khả năng sinh lợi rất thấp, khó có điều kiện thu hút các nhà đầu tư.
Theo Khánh Linh (Theo TTVN)