Về “xứ sở mây mù”, nghe tiếng reo của vốn
Xuyên qua “biển mây Khau Phạ” mờ trong sương trắng, chúng tôi chạm chân tới Mù Cang Chải, huyện xa nhất của tỉnh Yên Bái, nằm giáp Lai Châu với 91% dân số là đồng bào Mông.
Xưởng chè của anh Sùng Chứ Cớ giúp giải quyết công ăn việc làm trong gia đình và hỗ trợ người dân địa phương phát triển cây chè |
“Xứ sở của mây mù, núi cao và khe sâu” này những năm gần đây đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng không chỉ vì cảnh sắc thiên nhiên và nét văn hóa bản địa đậm nét, mà khách du lịch đến đây còn để chiêm ngưỡng thành quả của đồng bào đã vạt những đồi núi cao thành những triền ruộng bậc thang năng suất cao, xóa đói nghèo và làm nên danh thắng kỳ vĩ.
Đây cũng là một trong những niềm tự hào của những cán bộ tín dụng Phòng giao dịch NHCSXH huyện Mù Cang Chải khi nhìn lại hành trình hơn 15 năm đồng hành cùng người dân địa phương phát triển kinh tế.
Mặc dù cuộc sống hiện tại của vợ chồng Mùa A Của (dân tộc Mông) cư trú tại thôn Làng Sang, xã Nậm Khắt, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái mới chỉ có thể nói là đủ ăn với 50 bao thóc mỗi vụ; tài sản bán ngay được thành tiền chỉ có 1 con trâu đang độ tuổi sinh sản. Trong khi 800 gốc sơn tra và 3 ha thảo quả mà vợ chồng Của chăm sóc vẫn chưa cho thu hoạch.
Song nhìn lại bước khởi đầu của vợ chồng anh hơn 10 năm trước mới thấy, để có ngày hôm nay là một chặng đường đầy khó khăn vất vả với nỗ lực tự thân cùng nguồn lực “cứu cánh” duy nhất lúc đó là Chương trình cho vay phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg.
Là hộ được tiếp cận nguồn vốn này từ những ngày đầu, 5 triệu đồng vốn vay từ NHCSXH, cùng khoản vay mượn chỉ đủ để Của mua một con nghé non về chăm sóc. Và cũng phải qua 3 năm chăm bẵm, Của mới có thành quả đầu tiên với một chú nghé con ra đời. Thế rồi cùng với việc học tập kỹ thuật chăn nuôi áp dụng hiệu quả, cứ mỗi năm, Của lại có thêm một con nghé.
Tích lũy vốn dần qua những lần bán nghé, vợ chồng Mùa A Của dồn lực vào khai hoang đất, trồng lúa. Thêm một chu kỳ vốn vay hộ nghèo 30 triệu đồng, vợ chồng anh quyết định dồn vốn đầu tư trồng sơn tra và thảo quả. Nếu mưa thuận gió hòa hai năm nữa thôi, khi sơn tra và thảo quả cho thu hoạch, anh sẽ là một trong những nông dân triệu phú mới của thôn.
Với chị Mùa Thị Phàng sinh năm 1988, việc được bình xét vay 8 triệu đồng vốn trong chương trình đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 54/2012/QĐ-TTg không chỉ giúp chị mua được một con nghé con, mà hơn thế tiếp thêm nghị lực và niềm tin trong cuộc sống. Ngày chồng bỏ, ba mẹ con chị tay trắng, không ruộng nương, chỉ có căn nhà gỗ nhỏ che mưa nắng.
Chính vì vậy, việc được vay vốn mua trâu không chỉ giúp chị có thêm động lực nhìn về tương lai, để chị cố gắng hơn nữa làm lụng lấy tiền nuôi con và dành dụm phát triển kinh tế. Để rồi sau gần 3 năm chị đã có ruộng nương, có đủ lúa ăn, có ngô về nuôi trâu.
Có thể thấy, những năm qua các chương trình tín dụng chính sách đã đến với từng hộ gia đình, đáp ứng nhu cầu sản xuất phát triển kinh tế của đồng bào dân tộc nơi đây. Như gia đình anh Sùng Chứ Cớ, sinh năm 1972, từ việc chỉ trông chờ cây lúa mỗi năm một vụ, không đủ cho 5 miệng ăn, anh đã có cơ hội phát triển kinh tế với việc được bình xét vay vốn hộ nghèo năm 2007.
Trải qua 2 chu trình vay vốn hộ nghèo với xuất phát điểm từ việc nuôi trâu, bò, lợn và đầu tư lò sấy chè, năm 2015, gia đình anh đã bước ra khỏi danh sách hộ nghèo với một tài sản kha khá: 6 con trâu, 30 con lợn, 2ha sơn tra đã thu hoạch được một vụ, cộng thêm một cơ sở sản xuất chè với 2 lò sấy.
Năm 2016, anh vay tiếp 50 triệu đồng từ NHCSXH theo Chương trình cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn để đầu tư mua thêm 2 lò sấy, đưa công suất chế biến 4-5 tạ chè tươi mỗi ngày, đảm bảo công ăn việc làm cho 6 lao động trong nhà, thu nhập mỗi năm khoảng 200 - 300 triệu đồng. Không những thế, cơ sở chè của anh, góp phần tiêu thụ hơn 30 ha chè cho bà con trong vùng.
Những điển hình thoát nghèo, phát triển sản xuất này đang dần xóa đi tâm lý trông chờ ỷ lại vào trợ cấp của nhà nước ở xã đặc biệt khó khăn này. Người dân ngày càng mạnh dạn vay vốn và tận dụng các chương trình tín dụng chính sách để phát triển kinh tế và dòng vốn của NHCSXH đang trở thành điểm tựa kỳ vọng góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo xã giảm 16% mỗi năm (hiện đang là 55%) và đưa thu nhập của người dân từ 10 triệu đồng lên 30 triệu đồng vào năm 2020, đưa Nậm Khắt trở thành xã nông thôn mới đầu tiên ở vùng cao của tỉnh Yên Bái.
Phó chủ tịch huyện Mù Cang Chải, Lương Thị Xuyến chia sẻ: “Là huyện vùng cao, tỷ lệ hộ nghèo lớn, bà con phần lớn còn rất lạc hậu, sống rải rác trên vùng núi cao, nên khó khăn nhất là làm thế nào để người dân hiểu được và tự giác vươn lên.
Trong bối cảnh ấy, hoạt động của hệ thống NHCSXH nơi đây là hết sức ưu việt khi cán bộ tín dụng đã mang ngân hàng đến tận nhà dân”. Các phương thức truyền thông, vận động đa dạng từ hoạt động ủy thác của đoàn thể, các tổ tiết kiệm vay vốn đến việc tuyên truyền qua hệ thống truyền thông cơ sở đã góp phần thay đổi căn bản nhận thức bà con dân tộc trong việc sử dụng nguồn vốn tín dụng chính sách hiệu quả.
Đặc biệt với một xã 91% đồng bào Mông trải lên 13 xã đặc biệt khó khăn, khi có nguồn vốn dành riêng cho bà con theo Quyết định 32/2007/QĐ-TTg, rồi Quyết định 54/2012/QĐ-TTg, bà con rất phấn khởi, tích cực vay vốn phát triển sản xuất. Qua thời gian thực hiện, sản phẩm tiết kiệm triển khai thời gian gần đây cho thấy hoạt động NHCSXH gần dân, sát dân, giúp bà con không phải đến các thị trấn gửi tiền tiết kiệm ở các ngân hàng.
Những con số mà Giám đốc phòng Giao dịch NHCSXH huyện Mù Cang Chải chia sẻ càng thêm rõ tác động của dòng vốn này đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế của huyện. Tính đến cuối tháng 5/2018 tổng dư nợ của huyện đạt 210,78 tỷ đồng tăng 7% so với đầu năm, và đạt 99,2% kế hoạch giao. Con số tăng trưởng tín dụng 7% mới chỉ là một phần dòng chảy vốn chính sách vào phát triển sản xuất.
Bởi doanh số cho vay đến cuối tháng 5 đạt 27,137 tỷ đồng với 737 hộ nghèo, cận nghèo các đối tượng chính sách khác vay vốn để đầu tư vào phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo, trong đó có 32 học sinh sinh viên được vay vốn để trang trải chi phí học tập.
Nhìn rộng ra toàn huyện, nguồn vốn tín dụng chính sách đang hiện hữu tại 6.772 hộ với dư nợ bình quân đạt 30,8 triệu đồng/hộ, tăng 0,5% so với đầu năm. Năm 2017 cũng ghi nhận mức tăng dư nợ bình quân thêm 2,6 triệu đồng/hộ với số hộ vay 6.494 hộ, chiếm 60,3% số hộ trong huyện, cho thấy độ phủ tín dụng chính sách ngày càng rộng cả về đối tượng, mức vay cũng như quy mô.
Trong đó, dư nợ cho vay hộ nghèo đạt hơn 145,8 tỷ đồng với 5.029 hộ vay/6.649 hộ nghèo toàn huyện, cho vay hộ cận nghèo đạt 15,25 tỷ đồng, cho vay sản xuất kinh doanh vùng đặc biệt khó khăn đạt 21,5 tỷ đồng. Dư nợ cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 54 là 3,228 tỷ đồng, với 407 khách hàng còn dư nợ.
Hiệu quả của dòng vốn tín dụng chính sách góp phần giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo của huyện trong những năm qua. Nếu như trước năm 2016, tốc độ giảm nghèo bình quân đạt 9%/năm, thì từ năm 2016 áp dụng chuẩn nghèo mới, tỷ lệ giảm nghèo đạt 7%/năm. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo hiện tại còn 59,27% và tỷ lệ hộ cận nghèo là 13,45% vẫn là một bài toán nan giải trong hành trình xóa đói giảm nghèo của huyện.
Chính vì vậy, cùng với những nỗ lực của cán bộ tín dụng chính sách cũng như các tổ chức hội đoàn thể truyền tải dòng vốn đúng và nhanh đến các đối tượng có nhu cầu, Phó chủ tịch huyện Mù Cang Chải, Lương Thị Xuyến mong muốn, mức vay và nguồn vốn cao hơn nữa để có thêm nhiều đồng bào được vay vốn và tăng quy mô sản xuất nhanh hơn, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững.
Thực hiện đúng chủ trương của Đảng và Chính phủ trong thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, đặc biệt đối với những vùng khó khăn, trên địa bàn tỉnh rất nhiều chương trình tín dụng ưu đãi được đầu tư vào các xã đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn được tiếp cận với các chính sách tín dụng ưu đãi đạt cao, NHCSXH luôn ưu tiên nguồn vốn cho những vùng đặc biệt khó khăn, những hộ vay đúng đối tượng - đủ điều kiện - có nhu cầu vay đã cơ bản được đáp ứng nhu cầu.
Cùng với các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ giúp đỡ của các ngành có liên quan, đa số người dân đã biết cách sản xuất kinh doanh, từ đó sử dụng vốn vay có hiệu quả, có khả năng trả nợ, trả lãi khi đến hạn. Ý thức chấp hành của hộ vay được nâng lên.
Do vậy, việc thu hồi vốn khi đến hạn đạt kết quả tốt, tỷ lệ nợ quá hạn tại những xã đặc biệt khó khăn chỉ chiếm dưới 0,2% tổng dư nợ (điển hình như huyện Mù Cang Chải có 99% dân số là người dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người HMông nhưng nhiều năm qua nợ quá hạn chỉ chiếm 0,01%, đến 31/5/2018 chỉ còn 15 triệu đồng nợ quá hạn do hộ vay bỏ đi khỏi địa phương, lãi tồn hầu như không có, tỷ lệ thu lãi, thu nợ đến hạn đạt rất cao).
Qua kiểm tra của NHCSXH và các cấp có thẩm quyền cho thấy, nguồn vốn tín dụng chính sách đã đầu tư đúng đối tượng, hộ vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, từ phát triển kinh tế gia đình đã góp phần phát triển đời sống kinh tế, xã hội địa phương.