Vì sao phải nhập khẩu cao su?
Ảnh minh họa |
Ông Nguyễn Đình Đông, đại diện CTCP Công nghiệp Cao su miền Nam (Casumina) cho biết, do yêu cầu kỹ thuật của lốp ô tô cao hơn các sản phẩm khác, đặc biệt là đối với lốp Radial toàn thép, vì vậy nhà máy sản xuất lốp Radial toàn thép được Casumina khánh thành đưa vào vận hành vào tháng 4/2014, tại Tân Uyên, Bình Dương đang rất cần có các lô cao su sản xuất theo tiêu chuẩn riêng phù hợp với công nghệ sản xuất của nhà máy.
Trong khi đó, theo khảo sát của Casumina, các lô cao su SMR 10/20 của Malaysia có độ dao động về các chỉ tiêu kỹ thuật rất nhỏ (Po – RRI) cũng như độ dẻo Mooney rất nhỏ (khoảng từ 3 – 5%), việc này giúp ích rất nhiều cho công nghiệp luyện cao su hỗn hợp - ép xuất – tạo hình, thậm chí lưu hóa sản phẩm, giảm tỷ lệ phế phẩm.
“Rất vô lý khi Việt Nam là một trong những nước sản xuất cao su thiên nhiên nhiều nhất trên thế giới lại phải nhập khẩu cao su từ nước láng giềng”, ông Nguyễn Đình Đông nói.
Hiện tại, nhà máy nói trên của Casumina đang vận hành giai đoạn 1, sản xuất lốp xe tải toàn thép với công suất 1.000.000 lốp/năm, nên sản lượng tiêu thụ các loại cao su thiên nhiên SVR 10 và SVR 20 còn đang ở mức 100 tấn/tháng.
Tuy nhiên, trong vòng một năm rưỡi tới, khi dự án hoàn thành thì lượng tiêu thụ dự kiến tăng thêm 5 lần. Nếu không giải được bài toán về nguồn cung cao su thiên nhiên loại SVR 10, SVR 20 từ trong nước, nhiều khả năng DN này sẽ phải tăng lượng nhập khẩu từ Malaysia để thay thế.
Vậy nên, cũng dễ hiểu khi ông Nguyễn Đình Đông nhấn mạnh rằng, Casumina đang rất cần hợp tác với các nhà sản xuất cao su thiên nhiên trong nước để làm ra loại SVR 10, SVR 20 riêng cho nhà máy lốp Radial toàn thép của công ty.
Theo thống kê từ Hiệp hội cao su Việt Nam, sản lượng cao su năm 2014 đạt 953.700 tấn và năng suất đạt 1.692 kg/ha; Việt Nam tiếp tục xếp thứ 3 về sản lượng cao su thiên nhiên trên thế giới với thị phần khoảng 7,9%, sau Thái Lan (35,8%), Indonesia (26,1%).
Như vậy, về lý thuyết, khi Casumina đưa vào vận hành giai đoạn hai của nhà máy trên, các DN chuyên sản xuất cao su thiên nhiên sẽ có cơ hội tăng sản lượng loại SVR 10, SVR 20 để có thể cung cấp cho nhà máy sản xuất lốp ô tô toàn thép của DN này.
Tuy nhiên, chất lượng cao su thiên nhiên trong nước vẫn đang có một số vấn đề khiến DN gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất cao su thiên nhiên. “Hiện nay, khối DN tư nhân chúng tôi rất muốn theo kịp đà chất lượng của DN quốc doanh. Nhưng khó khăn lớn nhất của chúng tôi là nguồn nguyên liệu đầu vào từ các vườn cao su tiểu điền không đồng đều về chất lượng.
Hiện tượng pha trộn tạp chất vào mủ cao su trước khi bán cho các nhà máy tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn tái diễn ở nhiều nơi”, ông Võ Quang Thuận, Giám đốc DN tư nhân Thuận Lợi (DN ở Bình Phước, chuyên sơ chế mủ cao su tiểu điền để tạo ra nguồn cao su thiên nhiên), nói.
Để tránh tình trạng những DN sản xuất sản phẩm cao su công nghiệp như Casumina phải bỏ ra lượng ngoại tệ không nhỏ nhập khẩu cao su từ nước ngoài, theo ông Võ Quang Thuận, đã đến lúc cần có tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nguyên liệu mủ cao su đầu vào khi đưa đến các nhà máy sơ chế cao su để có cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng kiểm tra và xử phạt vi phạm. Bên cạnh đó, Viện Nghiên cứu Cao su cần mở rộng chức năng và dịch vụ đánh giá năng lực, độ chính xác, độ tin cậy của các phòng kiểm phẩm cao su trong cả nước.
Được biết, hiện nay do mức tiêu thụ cao su thiên nhiên trong nước để chế biến sản phẩm còn ít, nên ngành cao su sẽ phải tiếp tục xuất khẩu nguyên liệu thô với khoảng 70% tổng sản lượng cả nước trong nhiều năm tới. Ông Trần Ngọc Thuận, Chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) cho biết, toàn ngành cao su cũng phấn đấu sau năm 2020 chỉ xuất khẩu thô 50% sản lượng cao su. Số còn lại sẽ được tinh chế rồi mới xuất khẩu để tăng giá trị cho cao su thiên nhiên Việt Nam.
Đồng thời, tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa nhà sản xuất và DN sử dụng cao su thiên nhiên hơn nữa về giá, cơ chế hoạt động, sản xuất, cung ứng… để làm ra loại cao su mà thị trường cần nhiều nhất như SVR 10, SVR 20, RSS; cao su li tâm Latex tăng từ 10% lên 40%, giảm loại hàng thị trường ít sử dụng như SVR 3L từ 60% xuống còn 25%.
Tuy nhiên, để làm được điều này rất cần có tiếng nói chung và sự hợp tác giữa DN sản xuất và DN sử dụng cao su thiên nhiên, cũng như sự trao đổi kinh nghiệm sản xuất, chia sẻ thông tin một cách thường xuyên giữa các DN trong ngành cao su.
Giá trị của sản phẩm cao su Việt Nam xuất khẩu đã phát triển tốt với tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 3 năm 2012 – 2014 đạt 21,3% mỗi năm. Lốp xe có giá trị xuất khẩu lớn nhất trong các sản phẩm cao su sản xuất tại Việt Nam, chiếm khoảng 35,3% trong tổng giá trị xuất khẩu của các sản phẩm cao su. Kế tiếp là linh kiện cao su thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô và nhiều ngành khác, chiếm khoảng 28,9%. Ngoài ra, những sản phẩm cao su có kim ngạch xuất khẩu khác như đế giày cao su (9,7%), găng tay cao su (7,5%), săm xe (5,8%). |