Hai yếu tố về nợ công khiến đại biểu Quốc hội lo lắng
TS. Nguyễn Đức Kiên |
Qua thảo luận tại tổ, hầu hết đại biểu rất lo tình trạng nợ công hiện nay. Ông có chung tâm lý lo lắng này?
Với tỷ lệ nợ công của chúng ta cỡ khoảng 65% GDP, so với các nước khác thì chưa phải cao. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và đại biểu lo ở 2 điểm: Thứ nhất là tốc độ tăng nợ công của chúng ta cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thứ hai là tỷ lệ trả nợ của chúng ta ngày càng cao. Nó đã vượt quá 25% nguồn thu của ngân sách Nhà nước (NSNN) trong một năm. Như vậy, nó sẽ làm gần như bó tay tất cả các khoản đầu tư và các khoản chi NSNN khác. Đấy là 2 yếu tố trong nợ công khiến chúng tôi lo lắng.
Thực ra như Hy Lạp, nợ công chỉ 72% GDP họ đã phá sản. Thế nhưng Nhật Bản nợ tới 200% GDP vẫn ổn vì tỷ lệ trả nợ của Nhật mới chỉ bằng 8% đến 10% thu ngân sách. Vì vậy, nói về tỷ lệ nợ công an toàn hay không thì phải gắn với khả năng trả nợ mới là phù hợp.
Nói về sự minh bạch, so với nhiệm kỳ trước thì nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đã cải tiến và công khai rất nhiều. Nếu không công khai như thế thì đại biểu Quốc hội và cử tri cũng chẳng biết được tỷ lệ nợ công của chúng ta chính xác là bao nhiêu để mà lo lắng.
Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Chính phủ bảo lãnh cho DN vay, khi DN không trả được thì Chính phủ sẽ phải đứng ra trả thay và khoản nợ này cũng phải được tính trong nợ công?
Không phải như vậy. Cách tính nợ công phải căn cứ theo luật. Hiện nay, luật quy định thế nào thì Chính phủ làm như thế. Nếu cộng vào như vậy thì đây là cách tính tổng nợ của quốc gia.
Hiện nay, vấn đề chúng ta quan tâm là khoản nợ của DN mà Chính phủ bảo lãnh có được công khai hay không. Tôi cho rằng, Chính phủ cũng đã công khai khoản nợ này của DN. Nhưng theo Luật, Chính phủ không cộng vào nợ công. Còn các đại biểu Quốc hội lại cộng vào với nợ công, khi thấy rằng tỷ lệ trả nợ đã vượt quá 25% tổng các khoản thu thì các vị đại biểu rất lo lắng.
Như vậy, Chính phủ đã rất công khai và chính vì công khai thì các đại biểu mới có cái để bày tỏ thái độ. Nhưng cách Chính phủ làm là theo quy định của pháp luật. Nếu đại biểu Quốc hội thấy không đồng ý các quy định như hiện nay thì có thể đề xuất sửa đổi luật hiện hành.
Tỷ lệ trả nợ ngày càng cao, vượt 25% nguồn thu NSNN
Có ý kiến cho rằng, không có cơ sở nào để tính chỉ tiêu an toàn nợ công không được vượt ngưỡng 65% GDP. Quan điểm của ông như thế nào?
Có căn cứ chứ. Con số đưa ra phải căn cứ vào thực lực của nền kinh tế, của cán cân thương mại và dự trữ ngoại hối... hiện nay. Chúng ta phải phân biệt trong 65% GDP gồm có bao nhiêu % nợ nước ngoài, bao nhiêu % nợ nội địa.
Chúng ta thấy rằng, trong nợ của Chính phủ Nhật Bản thì tuyệt đối là nợ nội địa, nhưng của chúng ta thì trong đó có cả nợ nước ngoài, đặc biệt là nợ ODA của Nhật rất lớn. Con số đấy chúng ta đã cân nhắc cả.
Vậy theo ông, cử tri và nhân dân cần có thái độ thế nào về con số nợ công?
Vấn đề của chúng ta hiện nay không giống như Hy Lạp, Ireland, Sip… Khi phát hiện vấn đề là xử lý kiên quyết, chúng ta không cần phải có thái độ biểu hiện như các nước là phải bàn cãi, tranh luận. Nói chung, cử tri thể hiện trách nhiệm của mình là hành vi tốt, nhưng không nên đến mức độ hoảng loạn.
Cơ sở cho niềm tin khả năng giải quyết vấn đề là tốc độ tăng trưởng tuy thấp hơn trước nhưng vẫn đang tăng. Giá trị đồng tiền vẫn giữ vững. Về tín dụng, lãi vay ngân hàng đang xu hướng giảm. Chúng ta đã thực hiện một số chính sách ưu đãi và giảm thuế, đã thực hiện cải cách hành chính để đơn giản hơn và dễ kiểm soát hơn.
Ngoài ra, chúng ta cũng tăng cường công khai minh bạch các hoạt động của Chính phủ và hoạt động của Quốc hội để người dân thấy việc hoạt động đấy có phục vụ người dân hay không. Người dân thấy qua 6 vấn đề đấy là có thể yên tâm. So với các nước như Hy Lạp, Ireland… chúng ta thực hiện khác.
Một trong những giải pháp tăng thu ngân sách là đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Với việc sửa đổi pháp luật thuế kỳ họp này liệu có giúp DN có thêm nguồn lực hay không, thưa ông?
Với việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế, hy vọng chúng ta có thêm những động tác nuôi dưỡng nguồn thu, để các DN vượt qua được khó khăn trong mấy năm trở lại đây và một hai năm tới. Đến nay, mới đang hy vọng là như thế. Tuy nhiên, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, quan trọng là bản thân các DN cơ cấu lại mình để phù hợp với thị trường không? Thứ hai là thị trường quốc tế và nội địa diễn biến như thế nào?
Bên cạnh các chính sách thuế hỗ trợ DN, còn có chính sách hỗ trợ người tiêu dùng thông qua chính sách miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng để kích cầu. Tất nhiên, chính sách này chưa hỗ trợ được những mặt hàng lớn như ô tô con mà mới chỉ là cái áo, cái quần, chỉ là hàng nông sản khi bán đi thì không bị chịu thuế.
Xin cảm ơn ông!
Trần Hương thực hiện