Xử lý nợ xấu và sở hữu chéo… thông qua ETF
Trả lời phỏng vấn Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Thành Long - Vụ trưởng Vụ Quản lý quỹ (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước - UBCKNN) cho biết, Quỹ ETF thông thường là quỹ chỉ số, đầu tư thụ động, nhằm đạt lợi nhuận tương đương với chỉ số tham chiếu. Danh mục đầu tư của ETF gồm: ETF vật chất là phần lớn các mã chứng khoán có trong rổ chỉ số; ETF tổng hợp là chứng khoán phái sinh (swaps, futures…); ETF hàng hóa, ví dụ như ETF vàng.
Vậy việc thành lập Quỹ ETF tại Việt Nam sẽ mang lại lợi ích gì cho NĐT, thưa ông?
Ông Nguyễn Thành Long |
Lợi ích đối với nhà đầu tư (NĐT) thể hiện ở nhiều yếu tố. Tuy nhiên có thể tóm lược ở chỗ, quỹ này mang lại tính minh bạch cao hơn bởi danh mục đầu tư của quỹ ETF được công bố hàng ngày; giá trị tài sản ròng tham chiếu iNAV được công bố theo thời gian thực; giá trị tài sản ròng NAV được công bố hàng ngày, số lượng lô (đơn vị) ETF được phát hành ra mỗi ngày. Bên cạnh đó, đây được xem là sản phẩm dễ tiếp cận bởi cơ chế giao dịch quỹ đóng đối với NĐT nhỏ lẻ, nhưng lại là cơ chế giao dịch quỹ mở và cơ hội giao dịch đối với NĐT lớn. Cơ chế giao dịch linh hoạt, mức độ thanh khoản cao bởi được sử dụng các loại lệnh giao dịch, dịch vụ tiện ích (margin, short sell) như đối với cổ phiếu. Giao dịch hàng ngày và chênh lệch giữa giá thị trường (thứ cấp) và NAV không nhiều. NĐT có thể dễ dàng đa dạng hóa danh mục đầu tư theo chỉ số với chi phí thấp do chi phí quản lý quỹ thấp, chi phí marketing, chi phí phát hành, phân phối, giao dịch... thấp. Ở châu Âu chi phí dao động từ 0,09%-0,55%.
Còn với nền kinh tế thì sao?
Đối với nền kinh tế (theo kinh nghiệm quốc tế), đây là công cụ, giải pháp xử lý nợ xấu và sở hữu chéo thông qua hoạt động hoán đổi danh mục (cổ phiếu thế chấp, cổ phiếu các công ty là người có liên quan) lấy các lô đơn vị quỹ ETF bởi nó giúp làm sạch bảng cân đối kế toán của các thành viên lập quỹ, NHTM. Đồng thời, làm tăng tỷ lệ an toàn tài chính, nâng cao sức đề kháng phòng ngừa rủi ro và giảm nợ xấu, giảm dự phòng trích lập, tăng cung vốn cho thị trường. Cùng với đó, nó còn là công cụ phòng chống khủng hoảng. Ví dụ, sự ra đời và can thiệp của Chính quyền Hong Kong vào Quỹ TraHK (Tracker fund) được quản lý bởi State Street Global Advisors Asia nhằm chống đầu cơ tiền tệ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính ở châu Á.
Ngoài ra, quỹ này còn giúp tăng tính hấp dẫn cho thị trường chứng khoán (TTCK), đặc biệt là thị trường thứ cấp vì nó tạo ra một sản phẩm đầu tư mới, minh bạch, linh hoạt và được quản lý chuyên nghiệp. Giúp TTCK thu hút thêm NĐT mới, dòng vốn mới trên thị trường thứ cấp, tạo sự lan tỏa để thu hút thêm nguồn vốn cho nền kinh tế qua thị trường sơ cấp. Bên cạnh nó còn giúp tạo thêm sức cầu cho các chứng khoán (CK) cơ cấu, giúp TTCK thực hiện tốt chức năng phân bổ vốn hiệu quả. Ngoài ra quỹ còn có thể giúp thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Có thêm công cụ sẽ tăng tính hấp dẫn của thị trường. (Ảnh: TTX)
Ông có thể phân tích rõ hơn về khả năng có thể xử lý nợ xấu và sở hữu chéo của quỹ này là như thế nào?
Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy, những năm 2002 - 2003, hệ thống các ngân hàng Nhật nắm giữ lượng lớn CK thuộc về những công ty có liên quan sở hữu chéo. Cùng với đó, do TTCK của Nhật lúc đó cũng đi xuống nên giá trị tài sản rất thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Nó cũng ảnh hưởng đến nợ xấu mà khách hàng thế chấp bằng tài sản đó. Chính phủ Nhật Bản đã đưa sản phẩm này ra để chuyển toàn bộ danh mục cơ cấu từ những tổ chức tài chính - ngân hàng chuyển qua quỹ ETF, các ngân hàng sẽ nhận lại các lô đơn vị ETF. Như vậy, các CK thuộc sở hữu chéo sẽ được chuyển về quỹ chứ không còn nằm trong tay ngân hàng. Đồng thời, những tài sản đó khi chuyển vào quỹ là giao dịch hàng đổi hàng nên không gây áp lực giảm giá CK và cũng không dẫn đến diễn biến xấu. Hành động này đã giúp cải thiện nợ xấu vì khi tính thanh khoản của TTCK lên cao, giá của thị trường tài sản cũng được cải thiện sẽ làm giảm nợ xấu.
Tuy nhiên, tác động của loại sản phẩm này ở những thị trường khác nhau rất khác nhau. Ví dụ ở Nhật, rõ ràng loại CP mà ngân hàng nắm giữ là những CP tốt nằm trong các chỉ số thì người ta mới xử lý được vấn đề nợ xấu và sở hữu chéo. Hay với bất động sản, nợ xấu bất động sản của hệ thống ngân hàng là những tài sản chủ yếu cho thuê chẳng hạn thì mới phù hợp. Còn đối với các điều kiện của Việt Nam, câu chuyện có thể khác, không thể nói trước điều gì.
Vậy dự kiến khi nào Quỹ ETF có thể triển khai ở Việt Nam? Các quỹ đầu tư đang chờ đợi gì ở sản phẩm mới này?
Vấn đề này phụ thuộc vào thị trường, UBCKNN đang xây dựng Thông tư Hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ hoán đổi danh mục nhằm tạo hành lang pháp lý. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng đang tích cực đào tạo nhà đầu tư, thành viên thị trường. Vấn đề còn lại do thị trường quyết định. Bởi khi hệ thống pháp lý đã rõ ràng, khi nào thì các công ty quản lý quỹ cảm thấy thời gian và điều kiện thị trường chín muồi thì họ sẽ cùng với các nhà lập quỹ, CTCK và ngân hàng triển khai tổ chức.
ETF là một trong những sản phẩm mà NĐT cá nhân rất quan tâm. Tôi nghĩ các công ty quản lý quỹ sẽ hướng đến việc đáp ứng nhu cầu này. Về cơ bản hệ thống vận hành của nó không phức tạp. Còn kỳ vọng của NĐT hay sự chuẩn bị và các vấn đề khác của công ty quản lý quỹ là chuyện của thị trường. Việc của cơ quan quản lý là làm sao có được hành lang pháp lý đủ chi tiết, đủ thận trọng, đủ để có thể đảm bảo khả năng giám sát khi triển khai sản phẩm này.
Xin cảm ơn ông!
Dương Công Chiến thực hiện