Tránh bẫy thu nhập trung bình: Cần điều chỉnh chính sách công nghiệp
09:09 | 17/06/2020
Điều chỉnh chính sách phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao năng lực của khu vực DN tư nhân sẽ góp phần giúp Việt Nam tránh bẫy thu nhập trung bình.
5 tháng, các khu công nghiệp thu hút khoảng 4,3 tỷ USD vốn FDI | |
Công nghiệp hỗ trợ khó tận dụng cơ hội dịch chuyển đầu tư | |
Một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản |
Chính sách nhiều nhưng dàn trải
Tại Hội thảo công bố báo cáo nghiên cứu “Năng lực công nghiệp của khu vực DN tư nhân trong nước ở Việt Nam: Gợi ý điều chỉnh chính sách công nghiệp nhằm tránh bẫy thu nhập trung bình” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức cuối tuần qua, TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó viện trưởng CIEM, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam cho đến nay đã trải qua 3 giai đoạn chính. Giai đoạn 1 từ năm 1991 - 1995, công nghiệp chế biến chế tạo bắt đầu hình thành và định hướng của chính sách công nghiệp bắt đầu chuyển dần từ bảo hộ sản xuất trong nước sang định hướng xuất khẩu.
Giai đoạn 2 từ năm 1996 - 2000 là giai đoạn chính sách công nghiệp của Việt Nam định hướng xuất khẩu đã rõ nét hơn cùng với quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Giai đoạn 3 từ năm 2001 đến nay, chính sách công nghiệp vẫn tiếp tục định hướng xuất khẩu mạnh mẽ hơn, điều chỉnh theo các cam kết quốc tế và gắn với chính sách tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng nhằm phát triển bền vững. Một trong những điểm đặc biệt của giai đoạn này, là các cam kết hội nhập (thông qua hàng loạt FTA mà Việt Nam tham gia) đã có ảnh hưởng lớn đến ngành chế biến chế tạo và khu vực kinh tế tư nhân trong nước, nhất là các cam kết không trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa.
Cần điều chỉnh chính sách công nghiệp theo hướng vừa tăng quy mô, vừa thúc đẩy tăng năng suất |
Đặc biệt giai đoạn hiện nay đã đặt mục tiêu tái cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tập trung, hiện đại và ưu tiên phát triển chuyển giao công nghệ với các ngành, các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, gắn với sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhất là đã chú trọng nhiều hơn đến phát triển ngành chế biến chế tạo. Để thực hiện mục tiêu này, chiến lược và nhiều chính sách đã được đưa ra như chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 (Quyết định 879-QĐ/TTg ngày 9/6/2014); Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 23/3/2018).
Đi kèm với đó, hàng loạt các công cụ chính sách đã được đưa ra (ưu đãi về thuế và tín dụng cho các ngành công nghiệp ưu tiên; ưu đãi và hỗ trợ tiếp cận CSHT, nhất là mặt bằng sản xuất; ưu đãi và hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo và nghiên cứu, phát triển (R&D); ưu đãi, hỗ trợ đào tạo lao động…) nhằm phân bổ lại nguồn lực và thu hút nguồn lực vào các ngành ưu tiên này. Như vậy về mặt chính sách và công cụ cho các ngành công nghiệp ưu tiên đều đã có. Tuy nhiên theo bà Tuệ Anh, có một số điểm đáng lưu ý là các chính sách và công cụ này đang bị trải ra và thiếu sự điều phối. Đơn cử trong vấn đề ưu đãi và hỗ trợ đào tạo, hiện nay chương trình nào cũng có đào tạo và như thế rất khó tập trung được các nguồn lực.
Nâng tầm và dựa vào doanh nghiệp trong nước
Nghiên cứu cũng chỉ ra, các chính sách công nghiệp này đã giúp làm tăng quy mô, giá trị sản lượng và giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp nói chung nhưng cũng có bằng chứng cho thấy, các chính sách và công cụ này đã không hoặc có rất ít tác động tới giúp tăng năng suất. Trong khi đó, gia tăng được năng suất mới là yếu tố quan trọng nhất để phát triển bền vững. Từ thực tế đó, nghiên cứu này đưa ra khuyến nghị cần có sự điều chỉnh trong chính sách công nghiệp theo hướng vừa tăng quy mô, vừa thúc đẩy được tăng năng suất.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia muốn phát triển bền vững, vượt qua được bẫy thu nhập trung bình thì ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo phải được coi là đầu tàu, là động lực quan trọng tăng trưởng. Nhưng để phát huy được vai trò như vậy thì cần phải dựa vào khu vực trong nước, nhất là khu vực tư nhân.
Lâu nay chúng ta vẫn khẳng định như vậy nhưng trong thực tiễn triển khai khai thì chưa được như mong muốn. “Giải pháp đặt ra là phải coi việc nâng vị thế của khu vực trong nước lên là một trong những trọng tâm của chính sách công nghiệp. Có định hướng như vậy thì khi đưa vào các công cụ chính sách sẽ xác định được phải làm gì để giúp khu vực tư nhân tham gia vào”, bà Tuệ Anh nói.
Theo đó, bên cạnh các chính sách và xác định các ngành ưu tiên, cần có các giải pháp để hỗ trợ khu vực trong nước tăng được năng lực lên để họ tham gia được vào quá trình này. Muốn vậy, Nhóm nghiên cứu đề xuất, việc điều chỉnh chính sách công nghiệp cần gắn với Nghị quyết 10 (phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế) và được thực hiện đồng bộ với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm. Đồng thời, việc điều chỉnh cần tạo thuận lợi để tận dụng được các cơ hội mang lại của CMCN 4.0.
Yêu cầu đặt ra trong điều chỉnh chính sách là cần xác định rõ các ngành công nghiệp chủ lực cần được ưu tiên phát triển và các giải pháp để thu hút sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là cần điều chỉnh các chính sách ưu đãi, hỗ trợ gắn với phát triển ngành. Cùng với đó, cần cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cũng như khuyến khích các hiệp hội, ngành hàng đào tạo, chuyển giao tiêu chuẩn về quản lý chất lượng, chất lượng sản phẩm cho các DN, nhất là các DNNVV.
Ngoài ra, một yêu cầu quan trọng không kém là cần xóa bỏ khoảng cách giữa chính sách và thực thi. Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), các FTA mà Việt Nam tham gia vừa qua tạo cơ hội lớn cho ngành dệt may. Nhưng một trong những yêu cầu quan trọng các FTA đặt ra mà các DN phải đáp ứng được để hưởng các ưu đãi thuế quan là vấn đề xuất xứ, như EVFTA là từ vải trở đi, CPTPP là từ sợi trở đi. Trong khi đó đây lại là những khâu yếu nhất của chúng ta hiện nay.
Để giải quyết những điểm yếu này, chúng ta đã có chính sách để thu hút các DN trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có sự đồng bộ trong chính sách và thực thi chính sách, đặc biệt ở cấp địa phương. “Như trong lĩnh vực dệt nhuộm hiện nay đang rất bế tắc, rất nhiều dự án của DN khi về đến địa phương bị từ chối cấp phép, bảo lo sợ về môi trường dù DN đã cam kết sẽ tuân thủ tất cả các quy định, đảm bảo không gây hại đến môi trường. Đã có những dự án cả trăm triệu USD của DN nổi tiếng toàn cầu trong ngành dệt nhuộm bị dừng lại”, ông Cẩm thông tin.
Đỗ Phạm