Khơi thông hành lang pháp lý để phát triển doanh nghiệp xã hội
09:03 | 27/11/2020
Dù chiếm một dung lượng nhỏ, song Luật DN 2020 đã tháo gỡ vấn đề lúng túng nhất của nhà quản lý cũng như doanh nghiệp xã hội (DNXH) đó là tỷ lệ 51% lợi nhuận phải giữ lại để tái đầu tư cho hoạt động kinh doanh là dựa trên lợi nhuận sau thuế. Bên cạnh đó, để thúc đẩy mô hình DNXH, có rất nhiều quy định, chính sách, hỗ trợ đi kèm. Tuy nhiên, theo các DN và chuyên gia, dự thảo nghị định hướng dẫn Luật DN 2020 còn nhiều điểm chưa rõ ràng và cổ vũ cho sự phát triển của khối này.
Phát triển doanh nghiệp xã hội: Hụt hơi từ chính sách | |
Tìm giải pháp gỡ khó cho doanh nghiệp xã hội | |
Doanh nghiệp xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương |
Cần hướng dẫn cụ thể
Tại góp ý mới đây của Diễn đàn DN Việt Nam (VBF) đã chỉ ra Khoản 1 Điều 3 của dự thảo nghị định yêu cầu DNXH phải “hoàn lại toàn bộ các ưu đãi, khoản viện trợ, tài trợ mà DNXH đã tiếp nhận...” trong trường hợp DNXH “không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ cam kết ...” là không hợp lý. Bởi, theo quy định này, kể cả các ưu đãi, khoản viện trợ, tài trợ trước đó mà DNXH đã tiếp nhận và sử dụng đúng cho mục tiêu xã hội, môi trường đã cam kết thì DNXH cũng phải hoàn lại nếu DN đó có bất kỳ vi phạm nào đối với việc thực hiện cam kết. Điều này sẽ gây tổn thất rất lớn cho DNXH, thậm chí là có thể dẫn tới sự phá sản của DN đó. Vì vậy nên giới hạn trách nhiệm hoàn lại chỉ trong lần tiếp nhận ưu đãi, khoản viện trợ, tài trợ mà xảy ra vi phạm cam kết của DNXH.
Các DNXH có vai trò lớn trong thực hiện mục tiêu an sinh xã hội |
Hơn thế dự thảo nghị định Luật DN không đưa ra thêm hướng dẫn về cách thực thi quy định này. Ví dụ như: Ai sẽ có thẩm quyền kết luận hành vi không tuân thủ của DN? Hoàn tiền như thế nào và vào lúc nào? Yêu cầu hoàn tiền có giới hạn không? “Chúng tôi hiểu rằng có những thỏa thuận tài trợ sẽ được ký kết theo Điều 4.2 của dự thảo nghị định. Tuy nhiên, những nội dung bắt buộc dường như không bao quát được những điểm nêu trên. Do vậy, nếu các thỏa thuận tài trợ không làm rõ vấn đề này thì cách xử lý vấn đề sẽ không rõ ràng”, VBF phân tích. Từ đó VBF đề nghị, cơ quan soạn thảo nên xem xét cung cấp thêm hướng dẫn về điểm này trong dự thảo nghị định. Trong trường hợp nghị định không thể quy định thì các thỏa thuận tài trợ phải bao gồm các điều khoản đó.
Cũng liên quan đến Khoản 2, Điều 4, Luật DN cho phép “...DNXH được tiếp nhận tài trợ bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường”. Tuy nhiên, dự thảo nghị định chưa có hướng dẫn về định nghĩa của “Tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam”, nên gây khó khăn cho DNXH trong việc xác định đối tượng có thể tiếp nhận tài trợ.
Ngoài ra quy định các chủ DNXH (bao gồm chủ sở hữu, thành viên và cổ đông) đã ký tên trong cam kết và các thành viên HĐQT nhiệm kỳ có liên quan chịu trách nhiệm liên đới đối với các thiệt hại phát sinh trong trường hợp không tuân thủ cam kết tại dự thảo nghị định cũng chưa rõ ràng. Cụ thể là chủ sở hữu công ty (bao gồm cả thành viên và cổ đông) có bắt buộc phải ký cam kết không? Việc yêu cầu tất cả chủ sở hữu ký vào cam kết nếu công ty có nhiều chủ sở hữu có vẻ là bất khả thi. Theo VBF, quy định này tạo ra gánh nặng quản trị ở những công ty mà các chủ sở hữu thường không phải ký các loại văn bản này. Hơn thế, quy định như vậy là phân biệt đối xử giữa người ký và người không ký cam kết; Phân biệt đối xử giữa thành viên hội đồng quản trị và cán bộ quản lý khác trong công ty ví dụ như tổng giám đốc. Nghị định cũng chưa có hướng dẫn về xác định thiệt hại trong trường hợp không tuân thủ cam kết, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại…
Lúng túng chuyển đổi và xử lý tài sản
Về việc chuyển đổi mô hình từ cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện lên DNXH, quy định tại Điều 5 dự thảo nghị định các DN và chuyên gia cho rằng: Cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện vốn dĩ là những tổ chức được thành lập để chỉ làm những hoạt động phi lợi nhuận, trong đó tiền vốn và tài sản của các tổ chức này đã được hình thành từ những tiền tài trợ, viện trợ của những cá nhân tổ chức phù hợp với mục đích hoạt động phi lợi nhuận. Khi trở thành DNXH, chủ thể có thể thực hiện kinh doanh lợi nhuận sẽ phải sử dụng tài sản và vốn của tổ chức. Nếu DNXH này sử dụng vốn và tài sản được hình thành từ tài trợ, viện trợ khi mình đã có cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện thì sẽ không chính đáng và có thể vi phạm với quy định của một tổ chức phi lợi nhuận thuần túy. Vì vậy, cần một quy định để cho các tổ chức trên khi thành lập DNXH cần phải góp thêm vốn điều lệ bởi những người thành viên thành lập các tổ chức để kinh doanh.
Cũng liên quan đến vấn đề tài sản, Khoản 2, Điều 6 dự thảo nghị định quy định trường hợp giải thể DNXH thì số dư tài chính và tài sản tài trợ phải được trả lại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã viện trợ, tài trợ hoặc chuyển giao cho DNXH khác có mục tiêu tương tự. Điều 6.3 đã đề cập đến thỏa thuận với các cá nhân, tổ chức có liên quan về việc xử lý số dư tài chính và tài sản được tài trợ là một phần trong hồ sơ giải thể DN, tuy nhiên dự thảo nghị định không đề cập rõ ai sẽ là người quyết định người nhận số dư tài sản và tài chính và việc chuyển nhượng có cần phê duyệt của nhà tài trợ không? Làm thế nào để xác định số tiền phải hoàn trả cho mỗi nhà tài trợ? Nếu không có hướng dẫn chi tiết, việc thực hiện quy định trên thực tế sẽ không dễ dàng. VBF gợi ý số dư tài chính và tài sản được tài trợ nên được hoàn trả cho các nhà tài trợ theo tỷ lệ hoặc theo quyết định của tất cả các nhà tài trợ.
Luật DN hiện hành và Luật DN sửa đổi cũng chưa có quy định về các công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần thêm chức năng là DNXH. Theo thực tiễn, các Sở Kế hoạch và Đầu tư đã trả lời là không có quy định chuyển đổi từ công ty bình thường thành công ty DNXH nên không làm được thủ tục. Vì vậy, nên phải hướng dẫn thủ tục về để các công ty bổ sung yếu tố DNXH.
Nhất Thanh