Nhân lực chất lượng cao: Không bắt đầu, bao giờ đến đích?
09:52 | 16/08/2022
Khát, thiếu nhân lực chất lượng cao là vấn đề đã tồn tại lâu nay tại Việt Nam. Mục tiêu Việt Nam chuyển đổi thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao vào năm 2035 càng khó trở thành hiện thực nếu không hóa giải được vấn đề này.
Giải bài toán thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao | |
Làm gì để hút nhân lực công nghệ? | |
Đầu tư cho nhân lực - sức mạnh để phát triển bền vững |
Thiếu hụt nghiêm trọng
Chia sẻ tại một sự kiện của WB gần đây, bà Trần Thị Ánh Nguyệt, thuộc nhóm Giáo dục của WB tại Việt Nam cho biết, đầu ra trong giáo dục sau phổ thông (giáo dục đại học, đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề) tại Việt Nam vẫn đang gặp phải một thực trạng là tập trung quá nhiều vào vấn đề bằng cấp mà chưa quan tâm và có sự đầu tư tương ứng cho chất lượng (kỹ năng, năng lực của người được đào tạo). Chính vì vậy, giữa nhu cầu của thị trường lao động và chất lượng nhân lực mà các cơ sở đào tạo cung cấp có sự đứt gãy. Nhiều ngành, nghề không tuyển đủ được nhân lực có chất lượng theo nhu cầu đặt ra.
Nhìn trên bình diện chung và ngắn hạn, thị trường lao động đến hết quý II năm nay đã có sự phục hồi rất ấn tượng sau khi chịu những tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên tại Hội nghị toàn quốc giữa Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp ngày 11/8 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cũng thừa nhận: Chất lượng lao động vẫn thấp, đặc biệt là lực lượng lao động chất lượng cao thiếu hụt nghiêm trọng.
Việt Nam cần phát triển mạnh nguồn nhân lực chất lượng để đạt mục tiêu thu nhập trung bình cao. |
Khi nói đến việc “thiếu hụt nghiêm trọng” lao động chất lượng cao, vấn đề có lẽ không còn chỉ dừng lại ở những quan ngại ngắn hạn. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 (và trong nhiều văn kiện khác) đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và mong muốn phát triển nhanh qua sử dụng tri thức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và số hóa làm động lực để nâng cao năng suất và tăng trưởng kinh tế. Dù những yếu tố trên, cùng với việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế là những điều kiện quan trọng trong lộ trình hiện thực hóa khát vọng này nhưng xét cho cùng nhân tố con người - mà ở đây là nguồn nhân lực chất lượng cao - vẫn là mấu chốt.
Báo cáo “Giáo dục để Tăng trưởng” của WB mới đây nhận định, Việt Nam cần hỗ trợ phát triển mạnh mẽ vốn nhân lực, cần lực lượng lao động có kỹ năng để chuyển đổi thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao vào năm 2035 như khát vọng đặt ra. Đồng tình với nhận định này, GS. TS. Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) nhấn mạnh, chất lượng giáo dục có liên quan mật thiết đến chiều sâu và chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, bên cạnh những thành quả đạt được, khi nhìn về những vấn đề chưa được của kinh tế Việt Nam thì đều có nguồn gốc sâu xa từ những tồn tại, yếu kém của nguồn nhân lực.
“Kỹ năng quản lý, khả năng lãnh đạo cùng những kỹ năng nghề nghiệp hạn chế khiến cho Việt Nam khó có thể tiến xa hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của các doanh nghiệp lớn trên thế giới mà vẫn đang dừng lại ở những công đoạn thâm dụng lao động với kỹ năng lao động giản đơn. Trong khi lợi thế lao động rẻ không tạo thêm nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Cũng vì nguồn nhân lực hạn chế nên các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam hầu như chưa tham gia được vào các GVC mà nhường toàn bộ đất diễn cho các doanh nghiệp FDI. Việt Nam thiếu từ các chủ doanh nghiệp có tinh thần khởi sự cao, đến đội ngũ kỹ sư, cán bộ quản lý cấp trung… Những điểm nghẽn này xuất phát chủ yếu từ sự yếu kém của giáo dục đại học”, Giáo sư, TS. Phạm Hồng Chương nói.
Những vấn đề cần ưu tiên
Báo cáo của WB cũng chỉ rõ những nguyên nhân cơ bản dẫn tới giáo dục sau phổ thông (đặc biệt là giáo dục đại học) tại Việt Nam chưa hoàn thành được vai trò và chức năng của mình, kết quả đạt được vẫn còn thấp xa dưới mức tiềm năng. Trong đó, có cả những nguyên nhân từ quản lý nhà nước khi chỉ tiêu công cho giáo dục đại học còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực cũng như các nước tiên tiến.
Những rào cản của khả năng chi trả thấp cũng làm chậm quá trình phát triển của các trường đại học. Trong khi đó, cơ chế quản lý, trình độ và năng lực quản lý của các trường đại học vẫn còn nhiều vấn đề…
Những thực tế như vậy đòi hỏi giáo dục sau phổ thông, đặc biệt là giáo dục đại học của Việt Nam phải nhận diện được những tồn tại, đồng thời có những giải pháp hóa giải triệt để ngay từ lúc này để tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ cao, góp phần hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi thành công lên ngưỡng thu nhập trung bình cao với khung thời gian chỉ còn trong hơn 1 thập kỷ nữa, và trong bối cảnh tốc độ già hóa dân số sẽ diễn nhanh chóng trong hai thập kỷ tới.
Theo ông Michael Drabble - Chuyên gia kinh tế giáo dục cao cấp của WB, có 4 nhóm giải pháp quan trọng (2 nhóm thuộc về xã hội và 2 nhóm thuộc trách nhiệm của các trường đại học) nếu được thực hiện có thể đem lại kết quả đáng kể đối với giáo dục đại học, bao gồm: Nâng cao khả năng tiếp cận và công bằng; Cải thiện sự phù hợp (hài hòa chương trình học với nhu cầu thị trường); Cải thiện về đảm bảo tài chính; Cải thiện về quản trị.
Trong đó về nhóm giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận và công bằng, chuyên gia này giả sử mục tiêu về tỷ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông của Việt Nam đến năm 2030 là 45% (mức tương đương với các quốc gia đã trải qua để có được mức thu nhập trung bình cao), thì chỉ tiêu tuyển sinh bổ sung ước tính phải là 1,3 triệu mới đạt được tổng số 3,8 triệu sinh viên.
“Để có thể mở rộng quy mô như vậy, nhu cầu đặt ra là đảm bảo các cơ sở giáo dục tư nhân và ngoài đại học đóng một vai trò lớn hơn hiện nay; mô hình đào tạo đa dạng hơn; tăng cường nguồn tuyển sinh ngay từ bậc giáo dục trung học; và có hỗ trợ tài chính cho sinh viên”, ông Michael Drabble cho biết.
Hay liên quan đến nâng cao năng lực quản trị lĩnh vực giáo dục đại học. Chính phủ cần sắp xếp lại cơ cấu quản trị lĩnh vực giáo dục đại học nhằm tạo điều kiện phát triển và cải thiện chất lượng. Điều này bao hàm việc phải xác định tầm nhìn cho tương lai và cụ thể hóa tầm nhìn thành hành động; Thống nhất cơ chế phối hợp (nên giao cho một Bộ duy nhất phụ trách về các trường đại học, các trường kỹ thuật và dạy nghề thay vì cơ chế “hai Bộ” như hiện nay); Đảm bảo phân bổ ngân sách đầy đủ, đồng thời triển khai các công cụ tài chính và cơ chế ưu đãi nhằm khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học đổi mới sáng tạo và cải thiện kết quả đầu ra; Chủ động theo dõi kết quả hoạt động của hệ thống giáo dục sau phổ thông để có những điều chỉnh phù hợp…
Là một nhà quản lý trường đại học, GS. TS. Phạm Hồng Chương hoàn toàn tán thành với những đề xuất và các nhóm giải pháp mà báo cáo của các chuyên gia WB đưa ra.
“Khi những rào cản được xóa bỏ, khi động lực sáng tạo của các trường đại học được hỗ trợ và thúc đẩy thì chúng ta tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn”, GS. TS. Phạm Hồng Chương nói.
Tuy nhiên, Hiệu trưởng NEU cho rằng, con đường phát triển của các trường đại học là một chặng đường dài. Do đó, để có được thành quả trong những năm tới thì việc quan tâm, đầu tư, hỗ trợ ngay từ lúc này là rất cần thiết.
“Đây là một con đường dài và sẽ có khó khăn nhưng rất cần thiết. Và nếu chúng ta không bắt đầu thì sẽ không bao giờ đến được đích”, GS. Chương nói.
Đỗ Lê