“Khẩu vị” đầu tư của Nhật Bản tiếp tục thay đổi
09:48 | 21/02/2020
Năm 2019, Nhật Bản không nằm trong top 3 nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, đồng thời trong năm vừa qua cũng không ghi nhận bất cứ một dự án lớn nào của DN Nhật Bản giống như các năm trước. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là NĐT Nhật Bản đã không còn mặn mà với Việt Nam.
65,5% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam kinh doanh có lợi nhuận | |
Kỳ vọng Nhật Bản là nhà đầu tư tốt nhất tại Việt Nam |
Theo ông Đỗ Nhất Hoàng - Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), DN Nhật Bản thường có bước đi rất cẩn trọng và chắc chắn trước khi ra quyết định chính thức. Mặc dù vốn FDI đăng ký của Nhật Bản trong năm 2019 giảm so với 2018, nhưng số dự án được cấp phép lại cao nhất từ trước đến nay. Bên cạnh đó, điểm nhấn trong thu hút đầu tư Nhật Bản năm 2019 là vốn FDI bổ sung của DN nước này đứng thứ 2 chỉ sau Hàn Quốc (1,07 tỷ USD so với 1,58 tỷ USD).
Theo khảo sát mới đây của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), có hơn 63% DN Nhật Bản muốn mở rộng kinh doanh ở Việt Nam và 42,3% DN Nhật Bản tại Trung Quốc muốn đến Việt Nam. Ông Takeo Nakajima - Trưởng đại diện văn phòng JETRO tại Việt Nam cho biết thêm, hiện nay các DN có xu hướng chuyển dịch sang Việt Nam hoặc một số nước khác, song không phải là chuyển hoàn toàn cơ sở sản xuất, kinh doanh mà vẫn duy trì ở Trung Quốc và mở thêm cơ sở ở Việt Nam hoặc nước khác nhằm phân tán rủi ro kinh doanh. Thời gian tới, nếu Trung Quốc có xu hướng gặp khó trong xuất khẩu thì các DN Nhật Bản sẽ chuyển dịch sản xuất mạnh hơn sang Việt Nam.
Trưởng đại diện JETRO cũng dự báo, vốn FDI Nhật Bản sẽ tăng lên trong thời gian tới, chủ yếu đến từ hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phi chế tạo và từ các DNNVV. Do đó, số dự án được cấp phép cho NĐT Nhật Bản có thể tăng lên, nhưng vốn đầu tư trên từng dự án không hẳn lớn. Những lĩnh vực thu hút mạnh vốn Nhật Bản trong năm 2020 là công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ số. Cùng với đó, thời gian qua cũng ghi nhận dòng vốn FDI từ Nhật Bản vào hoạt động sản xuất phục vụ tại thị trường Việt Nam tăng lên, nhất là sau sự xuất hiện của 2 ông lớn trong ngành bán lẻ là Aeon và Uniqlo. “Xu hướng đầu tư của Nhật Bản vào lĩnh vực phi chế tạo sẽ gia tăng trong thời gian tới”, ông Takeo Nakajima nhận định.
Mặc dù vẫn đánh giá cao tính ổn định và khả năng tăng trưởng của thị trường Việt Nam, song NĐT Nhật Bản cũng đã khuyến nghị một số vấn đề mà Việt Nam cần cải thiện để xây dựng môi trường kinh doanh bền vững và an toàn hơn. Trong số đó, mối quan tâm hàng đầu của các DN Nhật Bản chính là nguồn nhân lực, thể hiện ở việc đánh giá chi phí nhân công tăng và tỷ lệ nghỉ việc cao là những rủi ro gia tăng trong năm vừa qua.
Các DN Nhật Bản tiếp tục thể hiện mong muốn về việc cải thiện chính sách và thủ tục hành chính tại Việt Nam. Rủi ro về việc rút chính sách ưu đãi cũng như chính sách năng lượng không rõ ràng cũng khiến DN Nhật Bản lo ngại. Ông Nobufumi Miura - Chủ tịch Hiệp hội DN Nhật Bản tại Việt Nam chỉ ra một số chính sách thay đổi đột ngột trong năm 2019 khiến DN Nhật Bản lo ngại, như ưu đãi thuế thu nhập cá nhân trong khu kinh tế được rút một cách đơn phương; hay chính sách nhập khẩu phế liệu bị hoãn lại, ảnh hưởng đến việc kinh doanh của DN…
“Có những rủi ro kinh doanh mà các công ty nước ngoài không thể bỏ qua và có thể là lý do khiến họ ngần ngại đầu tư thêm. Nếu các biện pháp khuyến khích đầu tư mà Chính phủ đưa ra, sau đó lại bị các cơ quan thuế bác bỏ, hồi tố và các điều khoản xác nhận những bác bỏ hồi tố này liên tục được đưa vào các dự thảo luật sau đó, thì các biện pháp khuyến khích đầu tư sẽ không còn hiệu quả trong việc thúc đẩy và thu hút đầu tư”, ông cảnh báo.
Chủ tịch Hiệp hội DN Nhật Bản tại Việt Nam cũng nêu thêm một lo ngại khác, đó là tình trạng thiếu hụt điện, đường, sân bay và bệnh viện đang ngày càng nghiêm trọng. NĐT Nhật Bản khuyến nghị, việc tích cực triển khai các cơ chế PPP sẽ mang lại nhiều lợi ích trong thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nhằm giải quyết rốt ráo các vấn đề này.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thiết lập cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Chính phủ Việt Nam và khu vực tư nhân để đảm bảo không xảy ra những rủi ro không đáng có. Vì vậy, Chính phủ cần sớm thông qua các quy định về bảo lãnh Chính phủ, góp vốn Nhà nước, thanh toán khi chấm dứt dự án… để thúc đẩy thực thi hình thức đầu tư PPP, từ đó sẽ cải thiện đáng kể môi trường đầu tư.
Lan Hương