Bồi thường khi thu hồi đất: Cần tính đúng, tính đủ
Góp ý Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được hoàn thiện để trình Quốc hội kỳ họp này, PGS-TS. Phan Trung Hiền Trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, cho rằng việc bồi thường đất thu hồi trong Dự thảo chưa phù hợp với nguyên tắc được đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW là: “sau khi thu hồi đất thì người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”.
Ảnh minh họa. |
Nhìn lại quá trình thi hành Luật Đất đai, PGS-TS. Phan Trung Hiền chỉ ra còn nhiều bất cập xoay quanh vấn đề thu hồi đất do các cơ quan chức năng không đứng trên quan điểm “xác định thiệt hại” trước khi giải quyết vấn đề “bồi thường thiệt hại”. Những vấn đề này chưa được giải quyết triệt để tại Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này.
Đơn cử, khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Tại khoản 4 Điều 3 Dự thảo có mở rộng thêm trường hợp bồi thường bằng đất không cùng mục đích sử dụng: “Bồi thường quyền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước bồi hoàn cho người sử dụng đất bằng tiền hoặc bằng đất hoặc bằng lợi ích vật chất khác tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên ngoài việc mở rộng thêm hình thức bồi thường, Dự thảo cơ bản vẫn ghi nhận nội dung của quy định hiện hành và thiếu hẳn những yếu tố mang tính định lượng.
Quy định này còn kết hợp với cụm từ “bồi hoàn”, gợi nhớ lại thời kỳ “đất đổi đất” có từ Luật Đất đai năm 1987 với những quy định chỉ mang tính “hoán đổi” mà không cam kết bảo đảm về lợi ích tương xứng, ngang giá giữa “đất thu hồi” và “đất bồi hoàn”.
Bên cạnh đó PGS-TS. Phan Trung Hiền chỉ ra vẫn thiếu khái niệm về “xác định thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất” và “khái niệm bồi thường về tài sản khác khi nhà nước thu hồi đất”. Nếu Luật Đất đai năm 2003 có quy định khái niệm “bồi thường khi nhà nước thu hồi đất” thì Luật Đất đai năm 2013 không còn quy định này. Dự thảo lần này cũng không có khái niệm “bồi thường về tài sản khi nhà nước thu hồi đất”. Mặc dù đối tượng thu hồi là đất nhưng thiệt hại mà người dân gánh chịu không chỉ bao hàm về quyền sử dụng đất bị bắt buộc dịch chuyển mà còn rất nhiều tài sản khác gắn liền hoặc liên quan đến đất bị thiệt hại.
“Việc thiếu quy định này thể hiện chúng ta chưa đứng từ góc độ “người bị thiệt hại” để xác định các thiệt hại từ việc thu hồi đất mà chỉ nhìn ở góc độ “người đi thu hồi đất” và mong muốn sớm đạt được mục đích của chủ thể đi thu hồi”, ông Hiền phân tích.
Điều này dẫn đến hệ lụy là chưa xác định đúng, đủ những thiệt hại mà người dân có đất bị thu hồi gánh chịu. Như Luật Đất đai hiện hành và Điều 91, 92 Dự thảo đều chỉ quy định bồi thường đối với công trình xây dựng trên đất và cây trồng, vật nuôi. Trong đó, khoản 2 Điều 92 Dự thảo chỉ quy định vật nuôi là “thủy sản”. Trong khi đó người dân nuôi rất nhiều loại, giống vật nuôi phục vụ cho các mục đích khác nhau, trong đó có gia súc, gia cầm và nhiều vật nuôi không phải là thủy sản, ví dụ: nuôi dế, nuôi rắn và các loại bò sát khác, nuôi trùn quế…
Ngoài ra, các thiệt hại như: chặn dòng nước tưới tiêu, làm ảnh hưởng nguồn nước sinh hoạt và nhiều thiệt hại gián tiếp khác chưa được xác định và bồi thường công bằng, tương xứng.
Còn với cây lâu năm, Luật sư Hiền cho rằng Điều 90 Luật Đất đai và Điều 92 Dự thảo sửa đổi đều quy định “được bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây theo giá trị ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất…” là chưa đúng bản chất thiệt hại. Khái niệm “giá trị hiện có của vườn cây” là không bảo đảm “tiềm năng của cây lâu năm” nếu đang trong những giai đoạn sinh trưởng của 5 năm đầu. Tiềm năng còn khai thác mùa vụ của từng loại cây có thể lên đến 10 năm, 20 năm, những thiệt hại về lâu dài đó chưa được tính đến.
Hiện cũng chưa có quy định xác định giá trị thiệt hại thực tế để tính tiền bồi thường cho từng trường hợp cụ thể, mà chỉ áp dụng bồi thường theo nguyên tắc là cứ cùng loại cây, cùng thời kỳ sinh trưởng thì bồi thường mức giá như nhau. Trong khi đó trên thực tế, có sự khác nhau lớn giữa nuôi trồng chuyên canh so với trường hợp vườn tạp, ao tạp. Mức bồi thường chưa tương xứng, chưa đúng với bản chất thiệt hại thực tế và chưa phù hợp với giá cả trên thị trường tại thời điểm thu hồi đất vì thiếu quy định về “ngày định giá” trong xác định đơn giá bồi thường cho người có đất thu hồi.
Để khắc phục những bất cập này, PGS-TS. Phan Trung Hiền kiến nghị bổ sung khái niệm “thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất” và “bồi thường thiệt hại về tài sản khi nhà nước thu hồi đất”. Hoạt động thu hồi đất có thể mang tính hành chính nhưng hoạt động bồi thường mang bản chất dân sự, ngang giá. Chính vì vậy, cần xây dựng cơ chế bồi thường dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 như: Có thiệt hại xảy ra do hoạt động thu hồi đất; Thiệt hại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp; Thiệt hại có thể ở dạng vật chất hoặc phi vật chất nhưng đều có thể tính ra bằng tiền.
Gắn liền với các quy định này cần quy định cơ chế bồi thường theo nguyên tắc: Những thiệt hại được quy định bồi thường được liệt kê trong các văn bản pháp luật; Những thiệt hại chưa được liệt kê trong quy định pháp luật nhưng là thiệt hại có thật, được giải quyết bởi cơ quan tòa án.