Bốn thập kỷ một cuộc cách mạng ngân hàng
Để có một cuộc “cách mạng” chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hai cấp vào những năm 1986-1990, ngay từ những ngày đầu giải phóng đất nước, bằng việc linh hoạt sử dụng lại các ngân hàng tại miền Nam và đổi mới cách thức quản lý hệ thống ngân hàng từ Trung ương đến địa phương, ngành Ngân hàng đã có những bước chuẩn bị từ rất sớm cho một mô hình tín dụng chuyên nghiệp.
Nhiều năm qua, ngành Ngân hàng đã thể hiện được vai trò “huyết mạch” của nền kinh tế đất nước |
Những trang sử ngành Ngân hàng còn ghi lại một giai đoạn khắc nghiệt và đầy thách thức đó là giai đoạn những năm 1986-1990. Thời điểm này với những tác động tiêu cực từ cuộc điều chỉnh “giá – lương – tiền”, hầu hết các hợp tác xã tín dụng nông thôn và các quỹ tín dụng đô thị đều lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả. Một số lượng lớn các ngân hàng cổ phần cũng đứng trước rất nhiều khó khăn về nguồn vốn huy động, không đáp ứng được nhu cầu cung ứng vốn.
Trong bối cảnh đó, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 53-HĐBT về tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam. Bắt đầu từ đây, hệ thống ngân hàng trên toàn quốc thống nhất thực hiện cơ chế hai cấp. Chức năng quản lý Nhà nước được tách ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Hoạt động của các ngân hàng được chuyển sang chế độ hạch toán, kinh doanh không còn cơ chế bao cấp như trước. Một thời gian ngắn sau đó, nguồn vốn huy động của các ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng. Giá vàng và giá đô la Mỹ giảm mạnh, lạm phát được đẩy lùi…
Nhìn vào lịch sử ngành Ngân hàng thời điểm này nhiều người vẫn nghĩ rằng việc chuyển đổi từ mô hình ngân hàng một cấp sang hai cấp chỉ diễn ra “chóng vánh” trong khoảng 4-5 năm khi có sự đổ bể của hệ thống hợp tác xã tín dụng và hàng loạt các ngân hàng. Tuy nhiên, nếu không có sự chuẩn bị từ nhiều năm trước thì “cuộc cách mạng lớn” này đã khó có thể tiến hành suôn sẻ và thu được những thắng lợi nhanh chóng chỉ sau một thời gian ngắn.
Từ sự tích hợp thông minh...
Trở lại thời điểm những năm 1955-1975, lúc này đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tại miền Bắc, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập từ năm 1951, tuy hoạt động theo mô hình một cấp tập trung nhưng đã bắt đầu có sự manh nha mô hình ngân hàng hai cấp với sự tách bạch và phân công công việc cho Chi nhánh Trung tâm và Chi nhánh Nghiệp vụ. Ở mỗi tòa nhà ngân hàng, Chi nhánh Trung tâm đóng ở tầng trên được giao nhiệm vụ quản lý chuyên môn, thống kê tổng hợp tình hình, đề ra các chủ trương biện pháp xử lý...
Trong khi đó, Chi nhánh Nghiệp vụ đóng ở tầng dưới được phân công trực tiếp giao dịch mọi nghiệp vụ ngân hàng đối với mọi khách hàng của mình. Việc phân công nhiệm vụ rạch ròi cho hai chi nhánh như trên xét về cơ bản gần giống với mô hình NHNN chi nhánh cấp tỉnh và các NHTM chịu sự giám sát quản lý hiện nay. Điều này đã tạo ra tiền đề để những năm 1957 và 1963, các ngân hàng chuyên doanh như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập và hoạt động như những ngân hàng nghiệp vụ.
Tại miền Nam, những năm 1954-1955 sau khi Ngân hàng Đông Dương của Pháp chấm dứt hoạt động thương mại, đã tạo điều kiện để các ngân hàng phát triển rầm rộ. Tính đến trước tháng 4/1975, hệ thống ngân hàng ở miền Nam có khoảng 32 ngân hàng thương mại với 180 chi nhánh. Như vậy, tính đến trước ngày giải phóng miền Nam, về cơ bản hoạt động ngân hàng tại các tỉnh Nam bộ phát triển mạnh hơn ở phía Bắc. Đồng thời cũng đã chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp khá chuyên biệt trong đó Ngân hàng Trung ương thuộc Nhà nước, còn các ngân hàng khác thuộc Chính phủ hoặc tư nhân.
Sau ngày 30/4/1975, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền Nam được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống NHNN Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước. Đây chính là thời điểm thể hiện sự nhạy bén và linh hoạt trong việc tiếp nhận các thành quả cách mạng của hệ thống ngân hàng. Thời điểm này với phương châm “giữ vỏ thay ruột” chính quyền cách mạng đã nhanh chóng tiếp quản được toàn bộ hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp tại miền Nam.
Việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Sài Gòn – Gia Định với 8 chi nhánh trực thuộc ngay sau khi tiếp quản hệ thống ngân hàng tại Sài Gòn đã giúp NHNN Việt Nam kế tục được vai trò hội viên của chính quyền chế độ cũ tại các tổ chức tài chính quốc tế IMF, WB, ADB... và tận dụng được hầu hết các quyền lợi do hệ thống ngân hàng chế độ cũ để lại.
Điều quan trọng là ngay những năm sau đó, dựa trên những nền tảng có sẵn từ hệ thống ngân hàng tại miền Nam, ngành Ngân hàng đã tích hợp hoàn hảo để thực hiện các kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980). Kế đó, đẩy mạnh hoạt động của các ngân hàng lớn trên cả hai miền Nam, Bắc, tạo ra bộ mặt mới của ngành Ngân hàng với bộ ba chủ lực là Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư - Xây dựng và Quỹ tiết kiệm xã hội chủ nghĩa, quán xuyến được mọi khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa từ xây dựng cơ bản đến phân phối lưu thông và tiêu dùng.
… đến sự vào cuộc nhanh chóng
Nhờ sự chuẩn bị và chủ động hoàn thiện hệ thống ngân hàng trên toàn quốc nên ngay sau cuộc khủng hoảng “giá – lương – tiền” vào các năm 1987-1988 ngành Ngân hàng đã kịp thời điều chỉnh. Việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường không vấp nhiều trở ngại.
Tháng 5/1990, hai Pháp lệnh ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) được ban hành thì ngay lập tức cuối năm 1990 hàng loạt các chi nhánh NHNN ở các thành phố lớn được thành lập để quản lý điều hành thị trường tiền tệ. Bốn ngân hàng quốc doanh và hàng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng được thành lập không lâu sau đó. Để chấm dứt tình trạng thiếu vốn, NHNN đã áp dụng cơ chế lãi suất thực dương, khép dần khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, điều chỉnh lãi suất thích ứng với thị trường.
Ba năm sau khi chuyển đổi mô hình hoạt động, hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu bình thường hóa các mối quan hệ với các tổ chức tài chính lớn trên thế giới như IMF, WB, ADB... phá bỏ cơ chế đông cứng tỷ giá và thay bằng cơ chế gắn với quan hệ xuất nhập khẩu, chịu tác động của quan hệ cung - cầu trên thị trường. Đồng thời cũng ngay trong những năm 1990, chính sách quản lý ngoại hối cũng được quy định chặt chẽ tuân thủ nguyên tắc trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, tích cực chống lại hiện tượng đô la hóa.
Năm 1997, với sự phát triển tích cực của hệ thống ngân hàng hướng tới mở rộng hoạt động tổ chức thị trường vốn và chuẩn bị cho các hợp tác quốc tế về kinh tế, Quốc hội đã ban hành Luật Các tổ chức tín dụng, kế đó Chính phủ cũng ban hành những văn bản quan trọng để hoàn thiện bộ máy, chức năng hoạt động của hệ thống ngân hàng như Nghị định 88/1998/NĐ-CP (về chức năng quyền hạn và tổ chức bộ máy của NHNN Việt Nam), Quyết định 218/2009/QĐ-TTg (về mở rộng dịch vụ ngân hàng thông qua dịch vụ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam)…
Như vậy, rõ ràng chỉ sau khoảng 10 năm từ khi chuyển đổi từ mô hình một cấp sang mô hình hai cấp, hệ thống ngân hàng đã hình thành bộ mặt mới thống nhất trên cả nước. Chính sách tiền tệ đã được thực hiện theo những nguyên tắc của kinh tế thị trường. Sự vào cuộc mạnh mẽ và nhanh chóng của ngành Ngân hàng trong quá trình chuyển đổi cơ chế hoạt động đã đóng góp to lớn tạo nên những thành tựu chung của nền kinh tế đất nước những năm đầu thế kỷ 21. Nó cũng chứng tỏ rằng định hướng phát triển và sự vận động của xu hướng tài chính mở đã bén rễ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam từ rất sớm trong những thập niên cuối của thế kỷ 20.
Để sau khi thống nhất hệ thống ngân hàng, từ chỗ chỉ có duy nhất một ngân hàng trung ương đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trở nên lớn mạnh với 150 ngân hàng và hơn 1.100 tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. Sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng đã làm “thay da đổi thịt” nền kinh tế đất nước trong suốt 40 năm từ ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam và sẽ còn thể hiện vai trò “huyết mạch” của mình trong những năm tới khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các sân chơi quốc tế lớn.
Đa dạng hình thức sở hữu Ông Tô Duy Lâm, Giám đốc NHNN chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, nhìn nhận sau 40 năm giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước, từ nền kinh tế đóng sang kinh tế mở, hội nhập, hệ thống ngân hàng từ chỗ chủ yếu hoạt động tiết kiệm và cho vay, đến nay trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh đã phát triển đa dạng sở hữu: Nhà nước, cổ phần, liên doanh, nước ngoài, HTX… TP. Hồ Chí Minh - một thị trường tài chính, ngân hàng sôi động nhất nước với 2.000 điểm giao dịch hiện nay đã đáp ứng các nhu cầu dịch vụ tài chính cho kinh tế thành phố tăng trưởng và phát triển trong suốt 40 năm qua. Hiện nay, quy mô huy động vốn và dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng TP. Hồ Chí Minh đã đạt trên 2 triệu tỷ đồng. Tổng doanh số thanh toán bình quân hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi ngày, được ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng việc chuyển tiền, thanh toán nhanh chóng tiện ích cho người dân thông qua ngân hàng điện tử. Sự phát triển năng động của nền kinh tế TP. Hồ Chí Minh cũng tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống ngân hàng phát triển trong quá trình hội nhập, liên kết, góp vốn cổ phần… Theo đó, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng TP. Hồ Chí Minh đến nay đã lên đến trên 2,2 triệu tỷ đồng, hơn 141 ngàn tỷ đồng vốn điều lệ, gấp nhiều lần so với 40 năm trước. PH.H.NG |