Bức tranh sáng của kinh tế Ninh Bình
Sức sống mới trên đất Cố đô | |
Giảm nghèo bền vững tại Ninh Bình | |
Những “điểm sáng” của ngành Ngân hàng Ninh Bình |
Sau 25 năm tái lập (1992 – 2017), từ một tỉnh thuần nông cơ sở vật chất - kỹ thuật hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu, tình trạng thiếu đói ở khu vực nông thôn vẫn còn nhiều, đến nay, Ninh Bình đã hình thành rõ nét nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các trụ cột phát triển kinh tế của tỉnh ngày một vững chắc cùng bệ đỡ từ hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của hệ thống các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Đồng chí Nguyễn Thị Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Bình chia sẻ cùng phóng viên Thời báo Ngân hàng. |
Bà có thể nói rõ hơn những thành tựu nổi bật về kinh tế - xã hội mà Ninh Bình đã đạt được sau 25 năm tái lập tỉnh?
Trong thời gian 25 năm qua từ năm 1992 đến nay, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng liên tục qua các năm và đạt mức cao hơn tốc độ bình quân của cả nước qua các thời kỳ. Đến hết năm 2016, GRDP đạt gần 28.108 tỷ đồng (giá so sánh 2010) và đạt 35.859 tỷ đồng (theo giá hiện hành); đặc biệt tổng thu ngân sách năm 2016 trên địa bàn đạt mốc 7.264 tỷ đồng, tăng gấp 181 lần so với thời kỳ mới tái lập tỉnh. Đây cũng là năm tổng thu ngân sách của tỉnh đạt đỉnh cao mới.
Điều đáng nói là cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, đồng thời có sự chuyển dịch tích cực giữa các thành phần kinh tế và các vùng trong tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Năm 2016, giá trị tăng thêm khu vực ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng lên chiếm 43% trong khi năm 1992 mới chỉ là 15,4%; khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản còn 14,7% và khu vực dịch vụ 42,3%.
Nền kinh tế từng bước có sự chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng động lực phát triển kinh tế của tỉnh, vùng chuyên canh và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp như: Vùng chuyên canh cây lúa chất lượng cao ở Kim Sơn, Yên Khánh, Yên Mô; chuyên canh cây dứa ở thị xã Tam Điệp; cây lạc ở Nho Quan… Các khu, cụm công nghiệp như: Khu công nghiệp Gián Khẩu (Gia Viễn); khu công nghiệp Khánh Phú (huyện Yên Khánh); khu công nghiệp Phúc Sơn (Thành phố Ninh Bình); cụm công nghiệp Gia Vân, Cầu Yên, Khánh Nhạc…
Với nhiều chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư, tỉnh cũng đã thành công trong việc huy động các nguồn vốn từ doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và vốn trong dân cư để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho phát triển kinh tế và các công trình phục vụ đời sống dân cư. Đặc biệt, trong thời gian qua nhờ sự tập trung đầu tư các công trình trọng điểm sản xuất công nghiệp như các nhà máy ô tô, kính nổi, thép, may mặc, sản xuất linh kiện điện thoại, điện tử, sản xuất xi măng…
Kết cấu hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông, hạ tầng xã hội, trường học, bệnh viện… được tập trung xây dựng tương đối đồng bộ, góp phần quan trọng tạo đà phát triển kinh tế - xã hội. Hạ tầng đô thị được chú trọng đầu tư, tạo điểm nhấn về cảnh quan cũng như thuận lợi để phát triển kinh tế, nhất là thương mại, dịch vụ. Thành phố Ninh Bình được đầu tư mở rộng cả về quy mô, cấp độ và tính chất để trở thành đô thị loại I, hướng tới thành phố du lịch văn minh, hiện đại. Thành phố Tam Điệp được tập trung đầu tư xây dựng trở thành thành phố công nghiệp hiện đại, hiện nay đã và đang thể hiện sức vươn mạnh mẽ của thành phố trẻ.
Năm 2016, tổng vốn đầu tư phát triển của tỉnh đạt 21.875 tỷ đồng, gấp 486,1 lần năm 1992, bình quân hàng năm thời kỳ 1992 - 2016 tăng 29,40%. Trong đó: vốn nhà nước đạt 3.586 tỷ đồng, gấp 179,3 lần, bình quân tăng 24,14%; vốn ngoài nhà nước đạt 17.255 tỷ đồng, gấp 2.465 lần, bình quân tăng 38,46%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.034 tỷ đồng, gấp 57,4 lần, bình quân tăng 18,39%. Bên cạnh đó, các công trình trọng điểm trong các khu, cụm công nghiệp đang được tiếp tục đầu tư để đưa vào phục vụ sản xuất trong thời gian tới.
Du lịch có bước phát triển đột phá, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, đã tạo điều kiện và mở ra cơ hội, vận hội lớn đưa du lịch Ninh Bình trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Lượng khách du lịch đến Ninh Bình ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước; năm 2016 lượng khách du lịch đạt 6,5 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt gần 720 nghìn lượt.
Hiệu quả phát triển kinh tế của tỉnh có thể nhìn thấy rõ hơn trong đời sống người dân Ninh Bình. Theo kết quả khảo sát mức sống kinh tế hộ gia đình năm 2016, thu nhập bình quân 1 người/1 tháng tính chung toàn tỉnh đạt 2.397 nghìn đồng, gấp gần 9,3 lần so với năm 2002. Trong đó khu vực thành thị đạt 3.282 nghìn đồng, gấp 7,3 lần so với năm 2002; khu vực nông thôn đạt 2.168 nghìn đồng, gấp 9,5 lần so với năm 2002. Năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí nghèo đa chiều toàn tỉnh là 5,77%.
Quần thể danh thắng Tràng An - Ninh Bình |
Vậy thưa bà, trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 25 năm qua, ngành Ngân hàng trên địa bàn đã có những đóng góp như thế nào vào tiến trình phát triển này?
Có thể khẳng định rằng, trong suốt thời gian qua ngành Ngân hàng luôn đồng hành cùng sự phát triển kinh tế của tỉnh; là hậu phương vững chắc, là bệ đỡ phát triển cho mọi thành phần kinh tế của tỉnh. Nhất là ở một tỉnh xuất phát điểm thấp như Ninh Bình vào ngày đầu tái lập, người dân còn thiếu đói, tích lũy dân cư thấp, thu ngân sách của tỉnh chưa đủ bù đắp chi, thì công cuộc tái thiết kinh tế lại càng cần dòng vốn ngân hàng bổ sung vào những khoảng trống cần phát triển mà ngân sách không thể bao bọc hết.
Nhìn vào tốc độ dòng chảy tín dụng cũng có thể cảm nhận rõ những cung bậc phát triển kinh tế của tỉnh. Nếu như vào năm đầu tái lập tỉnh, cuối năm 1992, nguồn vốn huy động của các ngân hàng chỉ đạt 31 tỷ đồng, dư nợ chưa tới ngưỡng 100 tỷ đồng (98 tỷ đồng), thì nay vốn huy động đã đạt 32.169 tỷ đồng và dư nợ đạt 58.135 tỷ đồng.
Khoảng cách giữa huy động và cho vay cũng đã cho thấy sự nỗ lực của hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh, thông qua việc huy động nguồn lực từ trung ương và các tỉnh thành khác để cung ứng nhu cầu vốn tín dụng cho Ninh Bình, đặc biệt trong 10 năm bứt phá gần đây. Vòng quay tín dụng trên địa bàn khá cao với doanh số cho vay gấp hơn 2 lần so với dư nợ tín dụng (năm 2016 doanh số cho vay đạt hơn 131.405 tỷ đồng), cho thấy tính hiệu quả của dòng vốn đầu tư ngân hàng, cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của người dân và DN.
Tôi đánh giá cao sự đóng góp của ngành Ngân hàng tỉnh trong việc tham mưu các chính sách kinh tế và tín dụng cho tỉnh trong thời gian qua, cùng với sự tận tâm hỗ trợ người dân và DN, không chỉ cung ứng đủ vốn mà còn “nhường cơm sẻ áo” những lúc khó khăn, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh và đảm bảo an sinh xã hội.
Có thể điểm lại những đóng góp của hệ thống các tổ chức tín dụng trên địa bàn với tỉnh nhà từ việc xóa đói giảm nghèo trong những năm qua. Ở vùng đất đa dạng về địa hình như Ninh Bình, có cả đồi núi bán sơn địa, đồng bằng ven biển và đồng chiêm trũng, diện tích đất canh tác không nhiều, nếu người dân chỉ chăm chăm hai vụ lúa thì cái nghèo cũng khó qua chưa kể đến phát triển kinh tế bền vững.
Thế nên dòng vốn ngân hàng là một trợ lực quan trọng để cùng với tỉnh đưa ra các quyết sách, chiến lược phát triển kinh tế vào cuộc sống. Từ việc góp phần tăng thu nhập cho người dân trong phong trào tăng gia sản xuất trong những năm đầu tái lập tỉnh cho đến nay là xây dựng nông thôn mới, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Từ một tỉnh còn nhiều nơi thiếu đói, đến nay, sản lượng lương thực có hạt toàn tỉnh năm 2016 đạt gần 491,7 nghìn tấn gấp 1,81 lần năm 1992. Sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người tăng mạnh từ 332,4 kg năm 1992 lên 516,2 kg năm 2016. Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất canh tác đạt 105 triệu đồng. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” và đưa cơ giới vào sản xuất rõ ràng không thể mở rộng nếu không có sự tham gia tích cực của hệ thống Ngân hàng.
Đối với việc phát triển các tế bào hạt nhân của nền kinh tế là DN thì vai trò của ngân hàng lại càng rõ. Trong những giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cùng nhiều chính sách hỗ trợ DN giảm, ngành Ngân hàng đã đưa ra hàng loạt các giải pháp như miễn giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ; đẩy mạnh Chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp,… đã hỗ trợ DN phục hồi và phát triển sản xuất trong thời gian qua, dòng vốn ngân hàng đã góp phần đưa sản xuất công nghiệp ngày càng phát triển trở thành động lực chính để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Theo đó, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh năm 2016 ước đạt 41.727,4 tỷ đồng (giá hiện hành), gấp 196,2 lần năm 1992, bình quân mỗi năm trong cả thời kỳ 1992 – 2016 đạt tốc độ tăng 24,60%. Trong đó, khu vực Nhà nước đạt 5.406,3 tỷ đồng, gấp 35 lần, bình quân hàng năm tăng 15,96%; khu vực ngoài nhà nước đạt 23.175,2 tỷ đồng, gấp 398,9 lần, bình quân hàng năm tăng 28,34%. Khu vực kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh mẽ nhất, giá trị sản xuất đạt 18.801,1 tỷ đồng (theo giá hiện hành), gấp 13.429 lần, bình quân hàng năm tăng 48,59%.
Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng là một trong những ngành hỗ trợ công tác an sinh xã hội lớn nhất trên địa bàn tỉnh. Tính đến nay, ngành Ngân hàng đã ủng hộ khoảng 200 tỷ đồng xây dựng nhiều công trình, trường học, bệnh viện, trạm y tế, xây nhà tình nghĩa, ủng hộ người nghèo, gia đình chính sách, các quỹ đền ơn đáp nghĩa,… góp phần đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh.
Kinh tế của Ninh Bình qua 1/4 thế kỷ đang rạng sáng, mục tiêu phát triển tiếp theo của tỉnh là gì, thưa bà? Và để góp phần hiện thực hóa các mục tiêu đó, bà đặt ra kỳ vọng gì đối với ngành Ngân hàng trên địa bàn?
Tự hào về những trang sử vẻ vang song chúng tôi cũng nhìn nhận rõ thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước và của tỉnh trong giai đoạn tới, từ đó xác định những mục tiêu rất rõ ràng cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đó là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý, quản trị, điều hành của chính quyền các cấp; phát huy dân chủ và sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Đồng thời huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, coi trọng chất lượng tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân chung của khu vực Đồng bằng sông Hồng. Phấn đấu đưa Ninh Bình phát triển nhanh, bền vững.
Những mục tiêu cụ thể cũng đã được đặt ra đến năm 2020, như tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân hằng năm đạt 8,0% trở lên. Cơ cấu kinh tế đến năm 2020 lấy công nghiệp - xây dựng là trọng tâm hướng tới chiếm 48% cơ cấu kinh tế, tiếp theo là dịch vụ với mục tiêu chiếm tỷ trọng 42%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 10%. GRDP bình quân đầu người đến năm cuối nhiệm kỳ theo giá hiện hành đạt 80 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh mỗi năm giảm từ 1,5% đến 2% (theo chuẩn nghèo đa chiều). Mỗi năm giải quyết việc làm cho 18.000 lao động, xuất khẩu lao động 1.000 người…
Để đạt được những mục tiêu này tỉnh cũng đang tập trung vào các khâu đột phá từ phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ; nâng cao chất lượng, hiệu quả du lịch, dịch vụ; ban hành các cơ chế quản lý phù hợp; cải cách hành chính; thu hút đầu tư đến đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút tài năng…
Bên cạnh những nỗ lực của tỉnh trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, xúc tiến đầu tư, rất cần có sự trợ lực của ngành Ngân hàng. Theo đó, ngành Ngân hàng trên địa bàn không chỉ là thực thi có hiệu quả các chính sách tiền tệ đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng. Mà hơn thế là sự kết nối của ngành Ngân hàng với Tỉnh ủy, UBND tỉnh; sự phối hợp với các sở, ngành và các hội đoàn thể, Chi nhánh NHNN sẽ tham mưu cho tỉnh các chính sách phát triển kinh tế cũng như lồng ghép các kế hoạch tăng trưởng tín dụng hợp lý hỗ trợ các thế mạnh kinh tế của tỉnh.
Đặc biệt với các chính sách tín dụng ngày càng đa dạng và các chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp mà ngành Ngân hàng đã khởi xướng trong những năm gần đây, với kỳ vọng ngành Ngân hàng trên địa bàn vừa là nơi cung ứng vốn tín dụng hỗ trợ DN phát triển, vừa là đầu kéo các DN cùng mang tiền vào tỉnh đầu tư thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư, tư vấn cho các DN…
Về phía tỉnh, chúng tôi cũng sẽ đồng hành cùng với ngành Ngân hàng, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình tạo lập hồ sơ tín dụng, hỗ trợ DN tiếp cận vốn ngân hàng dễ dàng hơn. Đồng thời, cùng ngân hàng vào cuộc xử lý các khó khăn, vướng mắc để dòng vốn tín dụng có thể phát huy tốc lực mạnh nhất, trở thành lực đẩy giúp Ninh Bình phát triển kinh tế nhanh hơn và bền vững hơn trong những năm tới.
Xin trân trọng cảm ơn bà!