Cần chính sách tạo sự bứt phá để kinh tế phục hồi
Sự chống chịu kiên cường đã trở thành khả năng cạnh tranh cốt lõi
Báo cáo “Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam” vừa được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Ngân hàng Thế giới (WB) công bố sáng nay, ngày 12/3/2021 đã cho thấy: Sự chống chịu kiên cường đã trở thành khả năng cạnh tranh cốt lõi của doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam.
Trình bày nội dung chính của báo cáo, ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng ban Pháp chế của VCCI cho biết, 87,2% số doanh nghiệp cho rằng chịu ảnh hưởng ở mức phần lớn và hoàn toàn tiêu cực bởi dịch bệnh. Chỉ 11% doanh nghiệp cho biết không bị ảnh hưởng gì.
COVID-19 tác động đến doanh nghiệp tại Việt Nam trên nhiều phương diện. Các khó khăn lớn nhất với doanh nghiệp tư nhân trong đại dịch COVID-19 xếp theo tỷ lệ doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lần lượt là tiếp cận khách hàng (50%), dòng tiền (46%), lao động (38%), và chuỗi cung ứng (33%). Dịch bệnh đã gây nên những xáo trộn nhiều nhất đối với doanh nghiệp FDI là về tiếp cận khách hàng (63%), dòng tiền (42%), chuỗi cung ứng (41%) và lao động (34%).
“Chúng tôi có hỏi doanh nghiệp có sa thải lao động hay không, đây là câu hỏi rất quan trọng vì nó liên quan đến việc làm, thu nhập và an sinh xã hội. Qua điều tra thấy, để cầm cự trước dịch bệnh, 35% doanh nghiệp tư nhân và 22% doanh nghiệp FDI đã phải cho người lao động nghỉ việc. Đây là con số rất đáng suy nghĩ”, ông Tuấn cho biết.
Ông Shawn W.Tan – Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB cho biết, theo quan sát của ông doanh nghiệp Việt Nam dù chịu tác động nặng nề nhưng từ tháng 10/2020 đã có một số doanh nghiệp phục hồi nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp tiếp tục bị ảnh hưởng.
Minh họa cho ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch tới doanh nghiệp, ông Shawn W.Tan cho biết 65% doanh nghiệp tư nhân và 62% doanh nghiệp FDI giảm doanh thu trong năm 2020. Mức doanh thu suy giảm trung bình của với doanh nghiệp tư nhân là 36%, và doanh nghiệp FDI là 34%.
Doanh nghiệp đồng lòng với Chính phủ trong mục tiêu kiểm soát đại dịch
“Chúng tôi cũng hỏi họ đã ứng phó thế nào trước đại dịch, thì câu trả lời nhận được rất tích cực. Có tới 92% doanh nghiệp tư nhân và 96% doanh nghiệp FDI cho biết đã thực hiện một hoặc nhiều biện pháp ứng phó. Các doanh nghiệp đã chủ động triển khai phương thức, mô hình làm việc mới, linh hoạt hơn. Dự trữ hàng hoá và nguyên vật liệu là giải pháp được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Một số doanh nghiệp đã tìm kiếm các giải pháp mới/thay thế chuỗi cung ứng và tiến hành hoạt động đào tạo kỹ năng số cho người lao động để triển khai phương pháp làm việc trực tuyến…”, ông Tuấn chia sẻ.
Báo cáo này của VCCI và WB cho biết, đa số các doanh nghiệp đánh giá chính sách hỗ trợ của Chính phủ và hầu hết các doanh nghiệp đồng lòng với Chính phủ trong mục tiêu kiểm soát đại dịch COVID-19.
Một câu hỏi đưa ra trong cuộc điều tra này là doanh nghiệp có đồng tình với giải pháp giãn cách xã hội không. Giải pháp này tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh thế nào? Qua điều tra, tỷ lệ doanh nghiệp ủng hộ giải pháp giãn cách này khá cao. Các doanh nghiệp cho biết, giải pháp này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, thu nhập của doanh nghiệp trước mắt nhưng dịch bệnh được kiểm soát tốt, sức khỏe người dân được bảo vệ thì sẽ mang lại kết quả tích cực hơn ở thời gian sau.
Ông Shawn W.Tan cho biết, hồi tháng 6/2020 chỉ có 11% doanh nghiệp tiếp cận được gói hỗ trợ nhưng đến tháng 10/2020 đã có 26% doanh nghiệp tiếp cận được, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được gói hỗ trợ.
Theo ông Shawn W.Tan và ông Đậu Anh Tuấn, tỷ lệ doanh nghiệp ủng hộ các chính sách phòng dịch của Chính phủ là rất cao. Trong đó, doanh nghiệp tư nhân nhìn nhận tích cực hơn so với các doanh nghiệp FDI về mức độ hữu ích của các chính sách khi tất cả các chính sách được nêu ra đều nhận trên 75% ý kiến ghi nhận mức độ hữu ích.
Cần có chính sách tạo được sự bứt phá
Với kịch bản xảy ra làn sóng dịch thứ 2 thì cũng có đến 84,3% doanh nghiệp tư nhân và 85,2% doanh nghiệp FDI ủng hộ biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt như đã diễn ra vào tháng 3-4/2020. Điều này cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp đồng lòng với Chính phủ trong mục tiêu kiểm soát đại dịch COVID-19.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cho rằng, vẫn cần thêm những chính sách mới bên cạnh những chính sách hỗ trợ của Chính phủ đã ban hành để nền kinh tế sớm phục hồi và dịch bệnh vẫn được kiểm soát tốt. Doanh nghiệp đề nghị nên có các gói kích cầu trong giai đoạn nền kinh tế phục hồi và chính sách kinh tế vĩ mô trong dài hạn cần quan tâm phát triển thị trường nội địa.
Quan trọng hơn, khá nhiều doanh nghiệp quan tâm đến cải thiện hệ thống pháp luật và tháo gỡ các nút thắt về thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh. Một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách thủ tục hành chính, cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ cho sự phục hồi bền vững của các doanh nghiệp trong quá trình ứng phó với tác động của đại dịch toàn cầu COVID-19.
“Đại dịch còn phức tạp nhưng chúng ta có niềm tin sẽ vượt qua đại dịch bằng đổi mới sáng tạo, bằng những mô hình kinh doanh mới, khả năng cạnh tranh mới chứ không thể theo mô hình cũ”, TS.Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI phát biểu. Theo ông dịch bệnh còn phức tạp và có thể trong hai ba năm tới mới khống chế được đại dịch, vì thế chính sách hỗ trợ và phục hồi kinh tế cần cả những chính sách dài hơi hơn và cần có chính sách tạo được dự bứt phá.
TS.Vũ Tiến Lộc cho biết, VCCI cũng đề xuất nhiều giải pháp. Trong đó VCCI đề nghị cần chính sách cho công nghiệp hỗ trợ, cần quan tâm hơn nữa các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ bởi khả năng chống chịu kém của nhóm doanh nghiệp này. Nghiên cứu áp dụng thêm một số biện pháp mà các quốc gia khác hiện đang áp dụng như hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp duy trì được tỷ lệ người lao động cao; hỗ trợ chi phí đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ cho người lao động.
Đồng thời, VCCI cũng đề nghị, cần chính sách tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trụ lại được và có khả năng vượt lên sau dịch COVID-19, đặc biệt về đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh mới. Việc này quan trọng không kém việc cứu các doanh nghiệp gặp khó khăn, vì sẽ giúp doanh nghiệp và nền kinh tế sớm vươn lên phục hồi tăng trưởng và đi vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Qua đó cũng giúp các doanh nghiệp tìm cơ hội mới trong bối cảnh mới.