Cần phải "hack não" và hành động ngay từ bây giờ
Do tác động của làn sóng dịch COVID-19 lần thứ 4, nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày đã không thể trụ vững, chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế bị đứt gãy, người lao động mất việc làm, thu nhập và phải đối mặt với nguy cơ nghèo đói. Đặc biệt chuỗi cung ứng dệt may, da giày lại một lần nữa có nguy cơ đứt gãy không phải do yếu tố cung – cầu bên ngoài mà do chính yếu tố trong nước, trong đó khan hiếm lao động là một nguyên nhân chính.
Ngành dệt may - da giày đang đứng trước nguy cơ không thể đạt được mục tiêu xuất khẩu đã đề ra như dự kiến trước đó, cũng như bước vào giai đoạn phục hồi sản xuất theo chủ trương mới của Chính phủ là “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” thay cho chủ trương “Không có COVID-19”..
Dệt may và da giày khó mở cửa trở lại
Phát biểu lại Đối thoại trực tuyến “Chung chung sức vì sự phục hồi bền vững ngành dệt may – da giày Việt Nam” ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), thay mặt lãnh đạo VITAS và Hiệp hội Da - Giày và Túi xách cho biết, ngành dệt may, da giày là hai ngành sử dụng nhiều lao động nhất trong các ngành kinh tế của Việt Nam. Dệt may có khoảng 2 triệu lao động công nghiệp (chiếm 25% lao động toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo). Da giày cũng sử dụng khoảng 1,4 triệu lao động công nghiệp (chiếm 18,2%).
Ngoài ra, còn có gần 1,5 triệu người kinh doanh thương mại và dịch vụ liên quan đến dệt may, da giày. Đây cũng là hai ngành có kim ngạch xuất khẩu rất lớn.
Năm 2019 đã đạt gần 60 tỷ USD, chiếm trên 22% kim ngạch xuất khẩu cả nước, trong đó dệt may đạt gần 39 tỷ USD và da giày đạt gần 20 tỷ USD. Cả hai ngành đang đứng trước cơ hội to lớn, khi nhiều FTA thế hệ mới được ký kết với thị trường xuất khẩu rộng lớn và thuế suất giảm dần về 0%. Dịch COVID-19 bùng phát đã khiến năm 2020, là năm đầu tiên hai ngành có mức tăng trưởng âm khoảng 10% sau vài chục năm tăng liên tục, ở mức cao.
Với thành công chống dịch của Việt Nam trong năm 2020 và kết quả sản xuất kinh doanh khởi sắc trong các tháng đầu năm 2021, chúng ta đã hy vọng sản xuất sẽ phục hồi đạt mức thực hiện của năm 2019. Tuy nhiên, từ cuối tháng 4/2021 đến nay, dịch COVID-19 với chủng mới Delta lại bùng phát tại một số tỉnh phía Bắc rồi đến TP. HCM và các tỉnh phía Nam với diễn biến vô cùng phức tạp và kéo dài. Cả nước đã có 28 tỉnh, thành phố phải thực hiện giãn cách, phong tỏa theo Chỉ thị 15, 16 với mức độ và quy mô khác nhau đã làm cho nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày phải đóng cửa, thu hẹp sản xuất, người lao động mất việc làm. Riêng ngành dệt may, lực lượng lao động tại khu vực này khoảng trên 1,2 triệu người, chiếm gần 65% lao động toàn ngành.
Các đại biểu tham gia đối thoại trực tuyến |
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong vài thập kỷ qua chưa có quý nào GDP của Việt Nam giảm sâu (-6,17%) như quý III/2021. Hai ngành dệt may, da giày cũng không phải ngoại lệ, ví dụ kim ngạch xuất khẩu dệt may tháng 8/2021 giảm 15,9% so với tháng 7/2021 và tháng 9/2021 tiếp tục giảm 9,2% so với tháng 8/2021.
Khảo sát tháng 9 của Hiệp hội Dệt may và Hiệp hội Da – Giày - Túi xách Việt Nam cho thấy gần 70% doanh nghiệp dệt may và da giày tham gia khảo sát bị nhãn hàng phạt vì giao hàng chậm trong năm 2021. Đặc biệt, trong 3 tháng cuối năm 2021, toàn ngành sẽ phải đối diện với vấn đề thiếu lao động trầm trọng do người lao động có xu hướng về quê tránh dịch, chưa quay trở lại làm việc ngay.
Kết quả khảo sát cho thấy trong bối cảnh giãn cách kéo dài, người lao động đã bị những ảnh hưởng nặng nề về tâm lý, sức khỏe và kinh tế gần như kiệt quệ, trên 60% người lao động di cư muốn về quê hoặc đã về quê. Tuy nhiên, phần lớn họ xác định muốn về quê trong một thời gian ngắn để phục hồi sức khỏe và cuộc sống cho bản thân và con cái. 89% người lao động di cư và 96% người lao động địa phương muốn tiếp tục làm việc ở nhà máy hiện tại. Đây sẽ là tín hiệu khả quan cho thấy nếu được hỗ trợ tích cực kịp thời, người lao động sẽ sớm trở lại nhà máy.
Phó chủ tịch VITAS nhấn mạnh: “Đại dịch COVID-19 cũng làm cho chúng ta nhận thức rõ hơn và quyết tâm giải quyết những vấn đề dệt may, da giày đang gặp phải.
Thứ nhất, nếu chỉ phụ thuộc nguồn cung NPL cũng như nhu cầu tiêu thụ của một số thị trường nào đó, rủi ro sẽ rất lớn khi có biến động. Sắp tới chúng ta phải tìm cách nâng tỷ lệ chủ động nguồn cung để tránh phụ thuộc và hưởng lợi từ các FTA.
Thứ hai, người lao động là vốn quý nhất của doanh nghiệp, nhất là đối với các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày. Việc giữ chân người lao động, làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp là giải pháp căn cơ mà mỗi doanh nghiệp phải làm.
Thứ ba, trong điều kiện lao động ngày càng khan hiếm, việc tiết kiệm lao động sống, đầu tư đổi mới công nghệ dựa vào Cách mạng công nghiệp 4.0, vào chuyển đổi số là con đường tất yếu cả trước mắt và lâu dài.
Thứ tư, vấn đề xây dựng lòng tin và đảm bảo hài hòa lợi ích, chia sẻ trong lúc khó khăn giữa các đối tác (người sử dụng lao động, người lao động, Công đoàn, Nhà nước và nhãn hàng) chính là chìa khóa để chúng ta chung tay vượt qua đại dịch.
Hóa giải khó khăn ngắn hạn, tính kế dài hạn
Song trước khi hướng đến cuộc chuyển đổi toàn điện đó, bà Nguyễn Tuyết Mai, Phó tổng thư ký Hiệp hội Dệt may cho biết, doanh nghiệp cần được giải quyết 3 khó khăn cơ bản vẫn đang hiện hữu để mở cửa sản xuất kinh doanh.
Đó là chính sách, Chỉ thị của Thủ tướng được triển khai không giống nhau ở các địa phương. Ví như Tiền Giang chưa cho doanh nghiệp mở cửa làm việc, hay như ở Đồng Nai còn doanh nghiệp phải sử dụng 3 tại chỗ khi chính quyền muốn bảo vệ vùng xanh. Người dân vùng xanh không thể đến vùng đỏ đi làm. Khó khăn thứ 2 là về nguồn nhân lực với việc doanh nghiệp chưa có đủ lao động xanh để mở cửa trở lại. Ngay như May Thành Công cũng chỉ duy trì được 68% lực lượng lao động vì công nhân chưa được tiêm vắc-xin. Hay như dịch bệnh kéo dài dẫn đến vấn đề tâm lý và kiệt quệ sức khỏe nguồn lực. Với những người về địa phương mà có công ăn việc làm thì khó trở lại. Vấn đề khó khăn thứ 3 là về tài chính, hầu như các doanh nghiệp đều khó khăn. Bà Mai chia sẻ một chủ tịch của một doanh nghiệp FDI còn nói với bà là dòng tiền của họ đã cạn đáy chưa kể doanh nghiệp nhỏ, nguồn lực vốn hạn hẹp của Việt Nam.
Đồng quan điểm về 3 mấu chốt cần giải quyết cho các doanh nghiệp 2 ngành mở cửa trở lại, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Da giày và Túi xách khuyến nghị tính chủ động của các doanh nghiệp cũng phải được nâng cao từ việc đa dạng hóa nguồn cung để không bị động ở bất cứ mắt xích nào. Cũng từ khó khăn tổn thất, các doanh nghiệp cần có phương án phòng ngừa, xây dựng quỹ phòng ngừa rủi ro. Đồng thời cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà máy và khách hàng với quan hệ hữu cơ, trong đó cần có sự chia sẻ khó khăn, đúc rút kinh nghiệm để tránh biến động bị động trong thời gian sắp tới.
Giám đốc điều hành, Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam, Mary Tarnowka, khuyến nghị cần phải hack não và hành động ngay từ bây giờ. Bởi doanh nghiệp càng lâu mở cửa thì càng khó kéo người lao động trở lại. Trong đó, nên xem thẻ vắc-xin là công cụ khuyến khích công nhân trở lại (công nhân được tiêm vắc-xin khi quay trở lai làm việc). Bà cũng cho rằng cần có sự kết nối giữa doanh nghiệp và chính quyền với việc chuyển từ biện pháp phòng dịch sang quản lý rủi ro, cho phép người công nhân ít nhất có một mũi vắc-xin được quay lại làm việc; mở rộng vùng mở cửa không chỉ vùng xanh mà cả vùng cam.
Chính quyền địa phương cũng cần hiểu rõ lợi ích của việc tiêm vắc-xin, từ đó có thể cho doanh nghiệp mở lại hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc chủ động xét nghiệm thay vì chờ phê duyệt được mở cửa trở lại. Như vậy, nhiều doanh nghiệp có thể mở cửa sớm hơn để thu hút công nhân khi người công nhân lo lắng về tài chính và sức khỏe của họ.
Bà Claudia Anselmi, Thành viên Ban chấp hành, Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam nhấn mạnh đến tính linh hoạt trong việc triển khai chính sách để vừa có thể bảo vệ sức khỏe và phục hồi kinh tế, vừa mở rộng sản xuất quy mô lớn để người công nhân có thể quay trở lại lao động. Đồng thời, cần nhanh chóng chốt quy định về y tế cũng như phân phối vắc-xin hợp lý để mọi người đã tiêm mũi 2 có thể tự do di chuyển đến nơi làm việc; Bên cạnh đó, cần quan tâm đến việc công nhận hộ chiếu vắc-xin cho người nước ngoài để họ quay trở lại Việt Nam, phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Bà cũng cho rằng, ngay từ bây giờ cần khuyến khích doanh nghiệp có trách nhiệm, phát triển bền vững và cạnh tranh hơn trong toàn ngành.
Trong đó cần xây dựng và triển khai quy trình quản trị rủi ro để quản lý hiệu quả đối mặt với thách thức; giáo dục người công nhân về quy trình sản xuất an toàn và bảo vệ sức khỏe. Vì COVID-19 chỉ là một trong những rủi ro, trong tương lai doanh nghiệp có thể đối mặt với nhiều thách thức thậm chí lớn hơn.
Đồng thời cần thúc đẩy sự chuyển đổi của 2 ngành da giày và dệt may đảm bảo tính bền vững về an sinh xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người nghèo và đối tượng yếu thế, đảm bảo sự vận hành thân thiện với môi trường; số hóa và đầu tư vào công nghệ để củng cố tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế; thúc đẩy việc hợp tác giữa nhà cung cấp và người mua vượt qua thách thức tìm giải pháp giảm rủi ro, và tính bền vững; các gói kích thích do doanh nghiệp triển khai, quy tắc ứng xử có trách nhiệm.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai nhấn mạnh lại một lần nữa, các cơ quan, địa phương, bộ, ngành khi thực hiện chủ trương chính sách mới cần linh hoạt để doanh nghiệp mở cửa nhanh nhất. Điều này cũng làm tốt phục hồi niềm tin của người lao động với Chính phủ và người dân. “Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm cần phục hồi tâm lý cho người lao động” bà nói. Đồng thời bà đề xuất đưa đối tượng lao động trong những ngành xuất khẩu quan trọng và đối tượng ưu tiên để nhà máy có nguồn lao động xanh mở cửa hoạt động.