Chuyển dịch năng lượng bền vững: Cần nỗ lực rất lớn để giải quyết những thách thức
Việt Nam cần chuẩn bị tài chính cho chuyển đổi năng lượng công bằng | |
Tài trợ cho dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn tại Việt Nam | |
Vì sao đến năm 2030 không phát triển thêm điện mặt trời? |
Khó nhất là cân bằng mục tiêu
Là một nền kinh tế đang phát triển năng động với tốc độ tăng trưởng cao, nhu cầu sử dụng năng lượng, đặc biệt là điện năng của Việt Nam cũng ngày càng lớn.
Theo nghiên cứu “Chuyển dịch Năng lượng Sạch ở Việt Nam” của Nhóm WB, ước tính nhu cầu điện sẽ tăng 6,5% mỗi năm trong giai đoạn 2020-2030 theo kịch bản cơ sở, tức dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào 2030 so với 2020, ước tính đến năm 2040, nhu cầu điện có thể tăng gấp 4 lần so với mức năm 2020 để đáp ứng được với các mục tiêu tăng trưởng và phát triển của Việt Nam.
Dù trên đây chỉ là dự báo nhưng có thể khẳng định sẽ rất sát với thực tế nếu nhìn lại tăng trưởng của điện trong quá khứ cũng như trong tương lai, gắn với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 (tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm), tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh chóng và ngày càng tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Theo Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững (Bộ Công Thương), nhu cầu về điện đã tăng tới 13%/năm trong giai đoạn 2001-2010 và khoảng 9,5% trong giai đoạn 2011-2019.
Ảnh minh họa. |
Việt Nam đã đưa ra cam kết đưa phát thải về mức 0 vào năm 2050 tại Hội nghị COP26. Vấn đề đặt ra là làm sao để cân bằng mục tiêu tăng trưởng kinh tế (kéo theo đó là nhu cầu điện như dự báo trên), đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia nhưng vẫn giảm được phát thải từ năng lượng để tiến tới góp phần đạt được mục tiêu Net-zero vào năm 2050?
Một lưu ý nữa là trong tính toán phát thải khí nhà kính theo ngành tại Việt Nam (thời điểm năm 2020), năng lượng là lĩnh vực phát thải chủ yếu, lên tới 65%. Trong năng lượng, điện năng là nguồn phát thải chính, chiếm đến 61%. Và trong điện năng, mức phát thải của nhiệt điện than chiếm khoảng 60%. Như vậy, bài toán “hóc búa” nhất, khó nhất trước hết là phải cân bằng giữa nhu cầu điện tăng (vốn không thể đảo ngược) trong khi lại giảm được phát thải xuống.
Ai cũng hiểu chuyển dịch sang năng lượng sạch chính là lời giải, nhưng lộ trình chuyển dịch sao cho phù hợp (để không gây ra các bất ổn về an ninh năng lượng…) thì lại không dễ dàng.
Để đáp ứng thực hiện thành công tiến trình đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam như cam kết, Quy hoạch điện VIII đang được xem xét cẩn trọng. Theo bản dự thảo Quy hoạch điện VIII mới nhất (bản điều chỉnh lần thứ 6 được Bộ Công Thương báo cáo Chính phủ tháng 11/2022), đến năm 2030, nhiệt điện than chỉ còn chiếm 20,6 - 19,8% tổng công suất và định hướng đến năm 2050 về mức 0%; trong khi đó năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối…) sẽ tăng nhanh lên mức 18 - 27% và 54,9 - 58,9% tương ứng các mốc thời gian trên.
Theo ông Hoàng Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), với chương trình phát triển nguồn điện này, lượng phát thải khí CO2 dự kiến đạt đỉnh 240 triệu tấn vào năm 2035 và giảm xuống còn 30-35 triệu tấn vào năm 2050, góp phần đảm bảo các cam kết với quốc tế về phát thải bằng “0” vào năm 2050.
Giải bài toán nguồn vốn
Do Quy hoạch điện VIII là quy hoạch ngành rất quan trọng cho cả giai đoạn dài sắp tới, đặc biệt là chúng ta cùng lúc phải đáp ứng được các mục tiêu, nhu cầu như kể trên. Do đó, có thể vẫn cần những điều chỉnh trước khi Chính phủ phê duyệt ban hành nhưng theo dự thảo Quy hoạch điện VIII mới nhất, cơ cấu nguồn điện đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, xanh và bền vững với khoảng 60-70% tổng sản lượng điện sẽ được cung cấp từ các nguồn năng lượng tái tạo (kể cả thủy điện) vào năm 2050.
Nhưng với giả thiết Quy hoạch điện VIII được phê duyệt về cơ bản sát với dự thảo này thì để đạt được các mục tiêu đề ra, tổng nguồn vốn cho phát triển điện là rất lớn. Cụ thể, theo ông Hoàng Tiến Dũng, dự kiến giai đoạn 2021-2030 tổng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện chương trình phát triển điện lực vào khoảng 104,7-142,2 tỷ USD. Trong đó, đầu tư cho phát triển nguồn điện khoảng 89,0-126,1 tỷ USD (mỗi năm 8,9-12,6 tỷ USD), cho lưới điện truyền tải khoảng 15,2-15,6 tỷ USD (mỗi năm 1,5-1,6 tỷ USD).
Định hướng giai đoạn 2031-2050, nhu cầu vốn đầu tư ước 324,6-483 tỷ USD. Trong đó, cho phát triển nguồn điện 302,9 - 448 tỷ USD (mỗi năm ước 15,1 - 22,4 tỷ USD), cho lưới điện truyền tải 21,7- 35,1 tỷ USD (mỗi năm từ 1,1-1,8 tỷ USD). Trong khi đó theo một tính toán khác của nhóm WB, từ nay đến năm 2040 sẽ cần khoảng 368 tỷ USD (theo giá trị hiện tại) cho quá trình chuyển dịch năng lượng để đạt mục tiêu và cam kết đề ra.
Nguồn vốn cho chuyển dịch năng lượng như vậy là khổng lồ mà tự thân Việt Nam khó có thể đáp ứng và sự hỗ trợ, hợp tác từ các nguồn lực bên ngoài là rất cần thiết. Một quy hoạch có tầm nhìn và đảm bảo khả thi cho quá trình chuyển dịch năng lượng, cùng với đó là khung khổ chính sách, quy định rõ ràng, minh bạch là những cơ sở quan trọng để giúp dòng vốn chảy vào lĩnh vực quan trọng này.
Theo ông Jules Jean Alain Le Gaudu, chuyên gia Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), trong con số 368 tỷ USD ước tính trên, Chính phủ chỉ có thể đáp ứng được 50%, phần còn lại (184 tỷ USD) sẽ đến từ khu vực tư nhân.
“Khu vực tư nhân vì vậy sẽ cần đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch này”, chuyên gia Jules Jean Alain Le Gaudu nhận định và cho rằng, sau các mục tiêu và chính sách đúng hướng, giờ là lúc đẩy mạnh hiện thực hóa.
“Việt Nam cần có hành động ngay lập tức và táo bạo để thu hút vốn tư nhân trước khi dòng vốn này chảy sang các thị trường khác trong bối cảnh nhiều quốc gia khác trong khu vực cũng đang tăng cường nỗ lực thu hút tài trợ khí hậu”, chuyên gia này đề xuất.
Một điều rất đáng mừng là dù hành trình chuyển dịch năng lượng mới chỉ bắt đầu nhưng các đối tác phát triển, Chính phủ và khối tư nhân, đặc biệt là các tổ chức tài chính - trên cơ sở đánh giá rất cao các cam kết, chính sách, kế hoạch hành động và những quyết tâm, nỗ lực của Việt Nam - đã có những động thái hợp tác và hỗ trợ rất mạnh mẽ.
Một trong những minh chứng là vào ngày 14/12/2022, Việt Nam và Nhóm đối tác quốc tế (IPG) bao gồm EU, Anh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Italy, Canada, Nhật Bản, Na Uy và Đan Mạch đã ký kết thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Bình đẳng (JETP).
Theo thỏa thuận này, trước mắt JETP sẽ huy động 15,5 tỷ USD nguồn tài chính từ khối tư nhân và đối tác trong 3 đến 5 năm tới để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh của Việt Nam. Các mục tiêu được JETP đặt ra rất rõ ràng: Giúp giảm tới 30% phát thải hàng năm của ngành điện và đẩy nhanh thời gian đạt đỉnh phát thải khí nhà kính dự kiến vào năm 2035 lên 2030 (tức đạt được sớm hơn 5 năm so với dự kiến); Giới hạn công suất điện than của Việt Nam ở mức 30,2GW từ mức kế hoạch dự kiến là 37GW; Giúp giảm tổng cộng khoảng 500 triệu tấn phát thải khí nhà kính đến năm 2035...