Có nên mở rộng quyền được chất vấn?
Liên quan đến các quy định về chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn tại dự án Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, một số ý kiến cho rằng quy định về chất vấn và trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân như trong dự thảo trình Quốc hội là chưa thể hiện đúng quy định của Hiến pháp.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai phát biểu ý kiến. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) |
Có ý kiến cho rằng việc lựa chọn nhóm vấn đề để đưa ra chất vấn trước Quốc hội khó bảo đảm sự khách quan, khó phản ánh hết ý chí của đại biểu và của cử tri; đề nghị quy định trách nhiệm của người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp tại phiên họp trả lời chất vấn. Một số ý kiến đề nghị rà soát lại quy trình chất vấn và trả lời chất vấn để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước đề nghị dự thảo luật cần làm rõ quy định tại điều 80 Hiến pháp 2013. Theo đó, khoản 3 Điều 80 Hiến pháp 2013 nêu rõ: đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định.
“Như vậy Hiến pháp đã quy định rõ cho đại biểu Quốc hội quyền chất vấn ngoài kỳ họp, chứ không chỉ chất vấn trong kỳ họp và trong thực tiễn cuộc sống cũng nảy sinh không ít trường hợp đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân có thể chất vấn ngoài kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội lại không quy định rõ khi đại biểu Quốc hội chất vấn ngoài kỳ họp thì có động tác như thế nào? Về thời hạn theo luật định thì trả lời như thế nào? Đề nghị, nên có một điều quy định cụ thể về điều kiện, môi trường, hoàn cảnh mà người đại biểu nhân dân có quyền chất vấn ngoài kỳ họp, phiên họp”, ông Phước nêu quan điểm.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai cũng cho rằng, tại khoản 2 Điều 80 Hiến pháp quy định: người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.
Theo bà Mai, với quy định này hoàn toàn không khống chế ngoài kỳ họp hay trong kỳ họp. Do vậy, dự thảo luật cần quy định cho phù hợp với Hiến pháp. Đồng thời, về chất vấn được quy định tại Điều 16 dự thảo luật là rất hẹp so với Hiến pháp. Tại Điều 80 Hiến pháp 2013 cho phép đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các chủ thể và không nói về mặt thời gian, không gian. Đề nghị dự thảo luật ghi nhận và cụ thể hóa quyền này.
Thế nhưng, theo phân tích của Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, khoản 2 Điều 80 Hiến pháp 2013 quy định về người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Còn quy định về quyền yêu cầu của đại biểu Quốc hội đối với cơ quan, tổ chức cá nhân cung cấp những thông tin, những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Quyền yêu cầu khác quyền chất vấn. Bởi quyền chất vấn theo khoản 7 Điều 3 dự thảo luật giải thích là quyền nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn và người bị chất vấn phải có trách nhiệm trả lời yêu cầu của người bị chất vấn.
“Những phiên chất vấn bao giờ cũng diễn ra tại kỳ họp hoặc phiên họp và trong trường hợp cần thiết mới ra nghị quyết về vấn đề chất vấn chứ không có trường hợp ra nghị quyết về vấn đề hỏi ngoài nội dung chất vấn. Do vậy, bây giờ đặt vấn đề chất vấn ở mọi nơi mọi lúc, bất cứ chỗ nào cũng có quyền chất vấn là không đúng theo tinh thần của Hiến pháp và thực thế lâu nay”, ông Lưu nói.
Về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, một số ý kiến tán thành trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân chỉ quy định chung có tính nguyên tắc về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, còn quy trình, thủ tục cụ thể sẽ thực hiện theo Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về vấn đề này.
Một số ý kiến lại đề nghị thu hút các quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm của Nghị quyết số 85/2014/QH13 của Quốc hội vào trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để thể hiện cho thống nhất, dễ theo dõi, dễ thực hiện và tránh tình trạng hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân được quy định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau.
Ủy ban pháp luật tán thành với ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào dự thảo Luật một số quy định về nguyên tắc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm như thể hiện tại các điều 19, 20, 36, 64 và 65 của dự thảo Luật. Còn các vấn đề cụ thể về trình tự, thủ tục được thực hiện theo Nghị quyết của Quốc hội về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Cũng trong phiên họp ngày 11/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về các vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau của Dự án Luật Trưng cầu ý dân. Tại Việt Nam, mặc dù trưng cầu ý dân đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nhưng cho đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa thành luật.
Trong điều kiện đang phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc phát huy dân chủ, huy động trí tuệ và tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia quyết định các chính sách, quyết sách lớn của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận cũng như về hiệu quả thực hiện pháp luật.