Đại dịch Covid-19 thúc đẩy quá trình số hóa tại các công ty châu Á
Đại dịch toàn cầu cũng buộc các doanh nghiệp phải xem lại làm sao có thể tăng tính minh bạch và khả năng truy xuất của chuỗi cung ứng. Covid-19 đã phô bày những mắt xích yếu ớt trong chuỗi cung ứng. Đồng thời, trong quản lý hàng hóa, các doanh nghiệp đang chuyển từ mô hình sản xuất tức thời (just-in-time) sang mô hình sản xuất đề phòng rủi ro (just-in-case).
Dịch bệnh này đang đẩy thế giới đến cuộc khủng hoảng toàn cầu tồi tệ nhất kể từ cuộc đại suy thoái. Trong tháng 4 và tháng 5, khảo sát HSBC Navigator đã được thực hiện với hơn 1.400 công ty từ bảy nền kinh tế lớn tại châu Á. Kết quả khảo sát cho thấy, các công ty châu Á cảm thấy họ đã được chuẩn bị sẵn sàng để có thể đương đầu những thách thức trong nửa đầu năm 2020.
Hơn một nửa các doanh nghiệp tại châu Á cho hay họ đã được chuẩn bị nhiều nhất có thể, con số này cao hơn nhiều so với các công ty ở những khu vực khác trên thế giới. Mức độ chuẩn bị cao hơn sẽ đem lại lợi thế cho các công ty châu Á khi thế giới thoát khỏi cơn khủng hoảng sức khỏe cộng đồng này.
Các công ty cảm thấy đã được chuẩn bị như thế nào?
Châu Á | Các khu vực khác trên thế giới | |
Được chuẩn bị nhiều nhất có thể | 55% | 38% |
Tiến đến số hóa
Về hình thức làm việc trong tương lai, so với các khu vực khác, châu Á có xu hướng tin rằng số hóa quy trình thương mại và thanh toán sẽ trở nên thông dụng trong một đến hai năm nữa. Trong lĩnh vực này, HSBC đã đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ, tiêu biểu như ứng dụng công nghệ chuỗi khối (blockchain) và giao diện lập trình ứng dụng (API) trong số hóa quy trình thương mại và thanh toán.
Ưu tiên phát triển trong một đến hai năm tới:
Châu Á | Các khu vực khác trên thế giới | |
Số hóa quy trình thương mại | 40% | 22% |
Số hóa quy trình thanh toán | 38% | 25% |
Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam Tim Evans nhận định: “Dịch Covid-19 đã đẩy các doanh nghiệp vào cuộc khủng hoảng chưa từng có. Tuy nhiên, trong thời kì khó khăn này, ngày càng rõ ràng là công nghệ chính là giải pháp tối ưu để giúp các doanh nghiệp, và cả nền kinh tế, sống sót trong suốt thời gian kéo dài giãn cách xã hội”.
Ông Tim Evans cũng cho rằng, những công ty nào đã đầu tư và xây dựng chiến lược số hóa từ trước chính là những nơi được thiết lập để có thể nhận diện thách thức thực tế, thích ứng và phát triển trong thế giới biến đổi một cách đáng kể như hiện nay. “Chúng ta đang chứng kiến các công ty ở Việt Nam khai thác sức mạnh của công nghệ để đáp ứng kịp thời”, ông nói.
Đánh giá lại chuỗi cung ứng
Bên cạnh việc cho thấy rõ những lợi ích của số hóa, dịch Covid-19 đã soi chiếu đến những điểm yếu trong chuỗi cung ứng của doanh nghiệp. Theo kết quả khảo sát Navigator, 54% các doanh nghiệp châu Á nói rằng họ sẽ tăng tính minh bạch và khả năng truy xuất trong chuỗi cung ứng của mình. Trong khi đó, hơn một phần ba các công ty châu Á sẽ đánh giá lại các đối tác cung ứng nhằm đảm bảo họ có đủ khả năng đương đầu những thách thức trong tương lai.
Thay đổi trong chuỗi cung ứng
Châu Á | Các khu vực khác trên thế giới | |
Tăng tính minh bạch và khả năng truy xuất | 54% | 22% |
Đánh giá lại các đối tác cung ứng | 37% | 25% |
“Hiệp định EVFTA đã nâng tầm quan trọng của việc Việt Nam phải thiết kế lại chuỗi cung ứng để thỏa mãn những quy định từ EU và tận dụng hết cơ hội mà Hiệp định thương mại này đem lại. Đồng thời, dịch Covid-19 là lời cảnh báo cho các doanh nghiệp, buộc họ phải đa dạng hóa chuỗi cung ứng của mình để tránh rủi ro tập trung khi phụ thuộc vào một thị trường cụ thể. Chúng ta đang nhìn thấy xu hướng các công ty đang giám sát chặt chẽ chuỗi cung ứng nhằm đảm bảo hoạt động của mình bền bỉ hơn và ít chịu ảnh hưởng từ những tác động bên ngoài”, Tim Evans nhận xét.
Khả năng phục hồi và rào cản
Khi được yêu cầu mô tả một doanh nghiệp với tố chất bền bỉ, các công ty châu Á nghĩ đến ba yếu tố hàng đầu, đó là khả năng quyết định và tiến hành nhanh nhẹn, lấy khách hàng làm trọng tâm, và hoạt động một cách bền vững. Trong khi đó, khi được yêu cầu nêu những rào cản hàng đầu đối với sự hồi phục, các doanh nghiệp châu Á đưa ra các yếu tố tài chính như có đủ dòng tiền và quản lý chi phí vốn lưu động.
“Nhờ thực hiện những biện pháp kiểm soát dịch hiệu quả cho tới nay và việc dần mở cửa trở lại một cách thận trọng, Việt Nam ngày càng trở thành một điểm đến kinh doanh hấp dẫn. Đây là thời điểm chín muồi để các doanh nghiệp Việt nắm bắt tình hình, xử lý nhược điểm của mình và bắt đầu xem xét đến việc tổ chức doanh nghiệp làm sao để tận dụng mọi cơ hội có được. Với năng lực kỹ thuật số phù hợp, các doanh nghiệp Việt có thể giúp đất nước tăng tốc trở lại, đạt mức tăng trưởng lịch sử”, CEO HSBC Việt Nam kết luận.