Dân ca Ví, Giặm: Luôn thức tỉnh giữa ánh hào quang
Để Dân ca Ví, Giặm của Việt Nam được UNESCO vinh danh ở cấp Di sản nhân loại, trước đó chúng ta phải làm rất nhiều việc trong công tác lập hồ sơ trình UNESCO. Theo đó, hồ sơ đề cử Dân ca Ví, Giặm được xây dựng với sự tham gia của các thành viên cộng đồng, chính quyền địa phương, các tổ chức chuyên ngành và các chuyên gia, các thành viên cộng đồng tự nguyện đề cử và cùng cam kết bảo vệ.
Tiết mục biểu diễn Dân ca Ví, Giặm trên sân khấu
GS-TS. Nguyễn Chí Bền - Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho báo giới biết, quá trình xây dựng hồ sơ trình UNESCO được Chính phủ, Bộ VH-TT&DL tiến hành từ giữa năm 2012 với nhiều sản phẩm khác nhau như ảnh, băng hình, báo cáo khoa học... Và điều đáng nói, hồ sơ đã được nộp cho UNESCO theo đúng thời hạn vào tháng 3/2013.
Khó ai có thể phủ nhận những giá trị của Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh của Việt Nam. Theo tổ chức UNESCO, hồ sơ đề nghị vinh danh Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh của nước ta được trình bày rõ ràng và thuyết phục, cho thấy loại hình dân ca này được phổ biến và thực hành trong một cộng đồng dân cư rộng lớn, phân bố tại nhiều vùng miền của Bắc Trung bộ.
Trong hồ sơ đề nghị, Việt Nam đã cung cấp cho Hội đồng thẩm định UNESCO thông tin đầy đủ và thống nhất về một loại hình dân ca đề cao và tôn vinh các giá trị đạo đức, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Theo hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa (Bộ VH-TT&DL), kết quả kiểm kê năm 2012 cho thấy hiện nay có 75 nhóm Dân ca Ví, Giặm với khoảng 1.500 thành viên. Việc thực hành, truyền dạy Dân ca Ví, Giặm được đẩy mạnh ở 15 huyện ở tỉnh Nghệ An và 12 huyện ở tỉnh Hà Tĩnh. Loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian này đã không ngừng phát triển cả về bề rộng, bề sâu, trở thành bản sắc riêng có của nhân dân xứ Nghệ.
Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ được thực hành trong cuộc sống, lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa. Các lối hát, vì vậy, được gọi tên theo các hình thức lao động và sinh hoạt như: Ví phường vải, Ví phường đan, Ví phường nón, Ví phường củi, Ví trèo non, Ví đò đưa, Giặm ru, Giặm kể, Giặm khuyên… Hai lối hát dân ca này thường được hát xen kẽ cùng nhau nên có tên ghép là Dân ca Ví, Giặm.
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là sự kết tinh khả năng sáng tạo lời ca và giai điệu của các cộng đồng người, đặc biệt là sự đóng góp của các nho sĩ, các nhà khoa bảng, các danh sĩ, sĩ phu yêu nước. Với nội dung, ngôn từ, bài hát do họ sáng tác, thấy được chặng đường lịch sử dân tộc đã đi qua. Mỗi người có thể hát Ví với âm điệu tự do, hoặc hát Giặm có phách mạnh, phách nhẹ, hoặc hát cả hai.
Ngày nay, hát Ví, Giặm đã có những thay đổi để thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội mới. Những người thực hành không chỉ là những nghệ nhân, con cháu nghệ nhân, những người nông dân trong thôn, trong xóm làng, mà có cả cán bộ, công chức, bộ đội, công an đang còn làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Việc thực hành hát Dân ca Ví, Giặm không chỉ ở từng cá nhân, từng nhóm người, mà chủ yếu là ở các Câu lạc bộ được thành lập tại các cơ sở, đội văn nghệ, cơ quan, đơn vị và trường học...
Việc truyền dạy được tiến hành dưới nhiều hình thức: truyền miệng trực tiếp hoặc ghi hình, ghi âm rồi hát theo. Ví, Giặm ngày càng gắn liền với lối sống và tập quán của cộng đồng người Nghệ Tĩnh, có sức sống mạnh mẽ trong đời sống đương đại, tiếp tục được trao truyền, bảo tồn và phát huy giá trị bằng nhiều biện pháp như: nghiên cứu, kiểm kê, tư liệu hoá, xây dựng cơ sở dữ liệu Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ; tổ chức giao lưu, liên hoan giữa các cộng đồng ở trong nước, quốc tế và phát huy các giá trị của Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ gắn với phát triển du lịch…
Thêm một di sản văn hóa phi vật thể nữa của Việt Nam được UNESCO vinh danh, đó là niềm tự hào của cả dân tộc. Bà Đặng Thị Bích Liên - Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL cho biết, Dân ca Ví, Giặm được tôn vinh ở cấp thế giới được xem là quyết định có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam.
Đồng thời bà Liên khẳng định, từ nay Dân ca Ví, Giặm sẽ được Việt Nam cam kết thực hiện chương trình hành động nhằm bảo tồn sức sống của loại hình dân ca này và triển khai những chính sách nhằm tôn vinh các nghệ nhân để thực hành, trao truyền và giáo dục thế hệ trẻ. Từ đó làm cho di sản trường tồn, xứng đáng với danh hiệu “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” mà UNESCO đã công nhận.
Q. Trang