Đề xuất nâng mức dư nợ vay của ngân sách TP. Hà Nội lên 90%
Trình bày thẩm tra dự thảo Nghị định, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, đa số ý kiến tán thành với các lý do cần thiết phải sửa đổi Nghị định số 63 nhằm tạo cơ chế, chính sách thuận lợi hơn trong việc huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực hợp pháp cho việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô trong giai đoạn tới.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải trình bày báo cáo thẩm tra. |
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, 2020 là năm cuối của thời kỳ ổn định ngân sách 2017-2020 và Khung chính sách ngân sách của thời kỳ ổn định ngân sách 2021-2025 chưa có. Vì vậy, cần cân nhắc, có thể chưa cần thiết ban hành Nghị định thay thế vào thời điểm này.
Về thẩm quyền quyết định, ông Hải cho biết, căn cứ vào khoản 2 Điều 74 của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015, Thủ đô Hà Nội được thực hiện cơ chế tài chính ngân sách đặc thù theo quy định của Luật Thủ đô. Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ được giao thẩm quyền cho ý kiến về quản lý, sử dụng ngân sách đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đối ngoại và một số cơ chế đặc thù đối với TP. Hồ Chí Minh và một số địa phương khác (khoản 1 Điều 74 Luật Ngân sách Nhà nước).
Tuy nhiên, những nội dung Chính phủ trình sửa đổi Nghị định hiện nay đều nằm ngoài quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Thủ đô. Vì vậy, để bảo đảm đúng thẩm quyền và phù hợp với việc áp dụng thí điểm các cơ chế đặc thù (một số cơ chế có thời hạn 3 năm, có cơ chế áp dụng dài hạn), đa số ý kiến đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định sửa đổi, bổ sung Luật Thủ đô hoặc ban hành Nghị quyết về một số cơ chế tài chính đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội. Do có các nội dung không phù hợp với Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Thủ đô nên không thể ban hành Nghị định của Chính phủ để quy định các nội dung này.
Về việc Chính phủ đề nghị cho phép Hội đồng Nhân dân TP. Hà Nội được phép quyết định dự toán chi ngân sách thành phố lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ căn cứ vào yêu cầu thực tế nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Thủ đô, phù hợp mức độ xã hội hóa đối với các lĩnh vực này trên địa bàn, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính ngân sách cho biết, đa số ý kiến cho rằng mức bố trí 2% cho khoa học công nghệ, 20% cho giáo dục và đào tạo tính trong tổng thể chi ngân sách quốc gia. Còn mức bố trí cho từng địa phương trong thực tế có thể cao hoặc thấp hơn.
Hiện nay, dự toán chi cho khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo do Quốc hội quyết định trên cơ sở đề nghị của Chính phủ. Hội đồng Nhân dân TP. Hà Nội căn cứ vào dự toán được Quốc hội quyết định để quyết định dự toán ngân sách cấp mình, trong đó, chi cho khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo không thấp hơn dự toán được Quốc hội quyết định. Như vậy, đã bảo đảm tính chủ động của địa phương, không cần thiết quy định nội dung này như Dự thảo.
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo, thực hiện quy trình lập, quyết định dự toán ngân sách hằng năm để sát với thực tế của địa phương, bảo đảm tổng chi ngân sách Nhà nước cho 2 lĩnh vực này trong phạm vi cả nước bảo đảm tỷ lệ như quy định. Mặt khác, để có cơ sở khoa học, thực tiễn, đề nghị Chính phủ tiến hành tổng kết, đánh giá việc thực hiện quy định về tỷ lệ chi cho 2 lĩnh vực này.
Cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay tỷ lệ chi ngân sách hằng năm cho giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là áp dụng bắt buộc cho các địa phương, trong đó có Hà Nội. Qua giám sát thực tế cho thấy Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số thành phố khác trực thuộc trung ương có khả năng xã hội hoá nguồn lực này, nên yêu cầu bố trí chi ngân sách địa phương thấp hơn tỷ lệ quy định nói trên. Nếu bố trí cứng nhắc tỷ lệ sẽ dẫn đến khó khăn, lãng phí trong việc điều hành ngân sách. Vì vậy, nhất trí với đề nghị của Chính phủ.
Về nâng mức dư nợ vay của ngân sách thành phố từ 70% lên 90%, đa số ý kiến đồng ý với việc nâng lên mức 90% để bảo đảm tương đồng với cơ chế đặc thù của TP. Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 54 của Quốc hội, nhằm tạo dư địa cho Thủ đô có thể tăng quy mô vay vốn đầu tư một số dự án cơ sở hạ tầng quan trọng, trong bối cảnh nguồn vốn ODA ngày càng hạn hẹp và các dự án ODA về đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đã được chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế cho địa phương vay lại.
Một số ý kiến thì đề nghị giữ nguyên mức dư nợ vay của ngân sách thành phố là 70% như quy định hiện hành. Vì với tỷ lệ 70% theo Nghị định 63/2017/NĐ-CP là đã cao hơn mức quy định của Luật Ngân sách Nhà nước là 60%; mặt khác, trên thực tế, tính đến ngày 31/12/2019 thì dư nợ vay của thành phố mới đạt khoảng 12% mức dư nợ cho phép (11,4 nghìn tỷ đồng/71,4 nghìn tỷ đồng).