Điểm đến hứa hẹn của nhà đầu tư Nhật thời hậu Covid
Chưa thấy sự dịch chuyển dòng vốn FDI sang Việt Nam | |
Các khu công nghiệp thu hút 6 tỷ USD vốn FDI trong 6 tháng đầu năm | |
Tỷ giá ổn định hút dòng vốn FDI |
6 tháng đầu năm 2020, tổng vốn đầu tư đăng ký mới, tăng vốn và góp vốn, mua cổ phần của NĐT Nhật Bản tại Việt Nam đạt 1,46 tỷ USD và chỉ xếp ở vị trí thứ 4, sau Singapore, Thái Lan, Trung Quốc. Tuy nhiên vốn đầu tư từ Nhật Bản đang hứa hẹn sẽ quay trở lại mạnh mẽ hơn. Bởi với việc khống chế thành công đại dịch Covid-19, Việt Nam đã tự khẳng định là đất nước an toàn, điểm đến đầu tư hấp dẫn hàng đầu của DN Nhật Bản sau đại dịch.
Đó là nhận định từ chính các DN, tổ chức của Nhật Bản tại Hội nghị xúc tiến đầu tư trực tuyến Việt Nam – Nhật Bản, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) và Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) tổ chức ngày 9/7.
Hội nghị trực tuyến được tổ chức với hơn 1.000 doanh nghiệp ở đầu cầu Nhật Bản |
Thành công nhờ chính sách đúng hướng
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng đánh giá, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đang trải qua thời kỳ khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2020, Việt Nam cũng là một trong số ít các nước trên thế giới đạt được mức tăng trưởng dương. Bên cạnh đó, trong khi dòng FDI toàn cầu có khả năng suy giảm tới 40% trong năm 2020 do tác động của đại dịch, thì kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong 6 tháng của Việt Nam vẫn tương đối khả quan. Đây là tín hiệu tích cực, thể hiện sự tin tưởng của NĐT nước ngoài đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam. Luỹ kế đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đang là điểm đến của hơn 32.000 dự án với tổng vốn đăng ký 378 tỷ USD từ 136 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Nhật Bản là nhà đầu tư lớn thứ 2 với hơn 60 tỷ USD vốn đầu tư.
Thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài với mục tiêu tập trung thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu; ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Đây cũng chính là thế mạnh của các DN Nhật Bản. Sự hợp tác đầu tư này sẽ có tính bổ trợ, bổ sung cho nhau và cùng phát triển.
Ông Okabe Asuke - Công sứ Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam nhìn nhận, kết quả phòng chống dịch Covid-19 thời gian qua cho thấy năng lực của Chính phủ Việt Nam trong công tác quản lý rủi ro là rất cao. Nhờ đó nền kinh tế đã vực dậy nhanh chóng, và Việt Nam nhiều khả năng trở thành nước đầu tiên tiếp nhận sự đa dạng hoá của chuỗi sản xuất. Vì vậy các NĐT Nhật Bản rất quan tâm Việt Nam như một điểm đến đầu tư thời hậu Covid. Ông Okabe cho rằng Việt Nam đã đạt được thành công nhờ một số chính sách đúng đắn và cần tiếp tục cải thiện như việc đẩy nhanh việc tái lưu thông giữa 2 quốc gia; thúc đẩy và cải thiện các dự án đầu tư công đã mang lại hiệu quả cao. Đây là chính sách riêng có ở Việt Nam. Việc sớm khởi công các dự án quan trọng như tuyến đường sắt đô thị số 1 tại Hà Nội, cao tốc Bến Lức - Long Thành tại TP. Hồ Chí Minh... sẽ kích thích hiệu quả nền kinh tế và Nhật Bản cam đoan sẽ giúp sức đẩy nhanh các dự án này.
Về phía Nhật Bản, Bộ Kinh tế công nghiệp Nhật Bản đã có gói hỗ trợ 2,3 tỷ USD để kích thích DN nước này da dạng hóa chuỗi cung ứng, trong khi các ngân hàng cũng có gói kích thích riêng. Đây là cơ hội để Nhật Bản tăng nhanh đầu tư vào Việt Nam. Song ông cũng đề nghị phía Việt Nam phải tăng cường các chính sách ưu đãi đầu tư và đảm bảo môi trường đầu tư minh bạch.
Việt Nam đã có sự chuẩn bị
Ông Đỗ Nhất Hoàng - Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài nhận xét, tính đến nay vốn đầu tư của Nhật xếp ở vị trí thứ 2, chỉ sau Hàn Quốc, song các cơ quan quản lý Việt Nam vẫn đánh giá cao NĐT nước này ở tỷ lệ giải ngân vốn đăng ký rất cao hơn hẳn so với NĐT từ các quốc gia khác. Đặc biệt, vốn Nhật luôn ưu tiên vào các lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo mà Việt Nam muốn đẩy mạnh thu hút đầu tư.
Ông Hoàng cũng khẳng định, để đón dòng vốn chuyển dịch đầu tư của NĐT nước ngoài nói chung và Nhật Bản nói riêng, phía Việt Nam đã có sự chuẩn bị. Thứ nhất là tiến hành chọn lọc và bổ sung quỹ đất công nghiệp sạch để NĐT có thể lập tức di dời nhà máy vào. Thứ hai, về nguồn nhân lực, giữa Việt Nam và Nhật Bản đã có nhiều khuôn khổ đào tạo nghề; có sự hợp tác giữa DN nước bạn với các trường nghề của Việt Nam; có nguồn lao động đào tạo ở Nhật Bản có thể làm việc trong nước. Thứ ba, về cung cấp điện, với lộ trình hoàn thiện công suất vận hành, sẽ đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu phát triển giai đoạn mới của Việt Nam.
Cùng với đó là hàng loạt luật mới của Việt Nam vừa được thông qua như Luật Đầu tư sửa đổi, Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) tạo khung khổ pháp lý thuận lợi, minh bạch, cạnh tranh, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Đặc biệt như ông Quách Ngọc Tuấn, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ KH&ĐT nhấn mạnh, Luật Đầu tư sửa đổi đã bổ sung một số đối tượng ưu đãi đầu tư như hoạt động đổi mới sáng tạo, hoạt động tạo ra chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành. Ưu đãi chính sách đặc biệt ở chỗ NĐT nước ngoài hay trong nước thuộc đối tượng này thì được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập DN, đất đai, thuế nhập khẩu… vượt trội hơn.
Chẳng hạn, đối với thuế thu nhập DN, nếu mức cao nhất hiện nay là 10% áp dụng trong 15 năm và có thể kéo dài 15 năm tiếp theo, thì chính sách đặc biệt cho phép ở mức thấp hơn 10%, có thể xuống đến 5%, và thời gian ưu đãi kéo dài 25 năm. Bên cạnh đó, nếu mức miễn thuế cao nhất là 4 năm thì có thể kéo dài 6 năm, giảm 50% trong 10 năm tiếp theo.