Doanh nghiệp giữa vòng xoáy Covid: Trụ lại và vượt lên từ đại dịch
Tăng cường khả năng hấp thụ vốn | |
Thay đổi chính sách hỗ trợ khởi nghiệp | |
Doanh nghiệp ngành thép: Cần những chính sách hỗ trợ bổ sung |
Đó là thông điệp của Báo cáo “Tác động của Covid-19 đối với doanh nghiệp - Một số phát hiện chính từ điều tra doanh nghiệp năm 2020” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam công bố hôm 12/3/2021.
Thích ứng nhanh là rất quan trọng
Báo cáo này cho thấy những tác động rất lớn, trên nhiều phương diện của đại dịch Covid-19 tới các doanh nghiệp tại Việt Nam, cả khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI. Theo đó, có trên 87% doanh nghiệp phản hồi cho biết, chịu ảnh hưởng ở mức “phần lớn tiêu cực” hoặc “hoàn toàn tiêu cực” bởi đại dịch; 65% doanh nghiệp tư nhân và 62% doanh nghiệp FDI cho biết, doanh thu bị giảm so với năm 2019.
Điểm cần chú ý trong báo cáo này là các doanh nghiệp mới hoạt động dưới 3 năm và các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn. Dệt may, du lịch, dịch vụ, vận tải, hàng không… là những ngành chịu tác động nghiêm trọng.
Nhiều doanh nghiệp dệt may đã kịp thời chuyển hướng sản xuất |
Tuy nhiên Báo cáo cũng một lần nữa cho thấy, các doanh nghiệp đã có những ứng phó tốt trước đại dịch. Có tới 92% doanh nghiệp tư nhân và 96% doanh nghiệp FDI cho biết đã thực hiện một hoặc nhiều biện pháp ứng phó, chủ động triển khai phương thức, mô hình làm việc mới, linh hoạt hơn.
Chẳng hạn như Công ty cổ phần Đầu tư và thương mại TNG – một doanh nghiệp trong ngành dệt may. Ông Nguyễn Văn Thời - Chủ tịch TNG đồng thời cũng là Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Nguyên kể lại, những ngày tháng đầu khi dịch bùng phát khiến chuỗi cung ứng bị đứt gãy, hàng sản xuất không xuất được, cửa hàng trong nước phải đóng cửa khiến TNG và nhiều doanh nghiệp lao đao. Nhưng “cái khó ló ra cái khôn”. “Sẵn có một số vải may áo nhưng không xuất được lại phù hợp tiêu chuẩn may khẩu trang, chúng tôi đã đưa vào sản xuất khẩu trang và đồ bảo hộ y tế. Việc thay đổi này vừa giúp doanh nghiệp vẫn có doanh thu, đảm bảo việc làm và thu nhập cho 1,6 triệu công nhân, trong khi lại góp phần cung ứng khẩu trang chống dịch”, ông Thời nói.
Báo cáo của VCCI và WB về ứng phó của doanh nghiệp trong đại dịch cho biết, doanh nghiệp chủ động triển khai phương thức, mô hình làm việc mới, linh hoạt hơn (37% doanh nghiệp tư nhân và 40% doanh nghiệp FDI). Dự trữ hàng hoá và nguyên vật liệu là giải pháp được nhiều doanh nghiệp lựa chọn tiếp theo (20% doanh nghiệp tư nhân và 24% doanh nghiệp FDI). Một số doanh nghiệp đã tìm kiếm các giải pháp mới/thay thế chuỗi cung ứng (16% doanh nghiệp tư nhân và 24% doanh nghiệp FDI). Có 13% doanh nghiệp tư nhân và 15% doanh nghiệp FDI đã tiến hành hoạt động đào tạo kỹ năng số cho người lao động để triển khai phương pháp làm việc trực tuyến.
Chính sách hỗ trợ cần thiết thực, hiệu quả hơn
Bên cạnh sự chủ động, nhanh nhạy thích ứng của doanh nghiệp thì các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng được doanh nghiệp đón nhận tích cực. Khảo sát cho thấy đa số các doanh nghiệp đánh giá chính sách hỗ trợ của Chính phủ là hữu ích và hầu hết đều đánh giá cao mục tiêu và các giải pháp kiểm soát đại dịch Covid-19.
Theo ông Nguyễn Văn Thời, các chính sách hỗ trợ đã được đưa ra nhanh nhạy và kịp thời nhưng vẫn còn khoảng cách và chậm trong khâu triển khai thực thi. Điều này dẫn đến số lượng các doanh nghiệp tiếp cận được còn thấp. Do đó tới đây, việc tiếp tục triển khai đồng bộ các hỗ trợ theo hướng hạn chế các rào cản thủ tục; tiếp tục kéo dài hỗ trợ về thuế, phí, bảo hiểm, hỗ trợ từ phía các ngân hàng sẽ giúp tăng niềm tin của doanh nghiệp và giúp cho các doanh nghiệp phục hồi.
Báo cáo của VCCI và WB cũng chỉ ra, vẫn còn dư địa để cải thiện hiệu quả của các chính sách hỗ trợ đang có. Cụ thể, các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền chính sách hỗ trợ để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được các gói hỗ trợ đã ban hành. Trong đó, cần có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết và đầy đủ về các thủ tục, quy trình thực hiện theo hướng đơn giản, dễ thực hiện đối với các doanh nghiệp. Đồng thời, cần chủ động nắm bắt tình hình triển khai, đặc biệt là những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện để điều chỉnh hoặc kiến nghị điều chỉnh kịp thời và có cách thức hỗ trợ phù hợp đối với các doanh nghiệp ở từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn, chú trọng các doanh nghiệp thuộc các ngành bị tổn thương nặng nề bởi dịch Covid-19. Đặc biệt, cần quan tâm hơn nữa các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ bởi khả năng chống chịu hơn.
Bên cạnh các chính sách hỗ trợ đã ban hành và cần đẩy mạnh khâu thực thi. TS.Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI cho rằng, các bộ, ngành có liên quan cần nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ ban hành các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và mở rộng đầu tư kinh doanh cho cả giai đoạn 2021-2025. Theo nhiều dự báo, đại dịch Covid-19 vẫn tiếp tục có những tác động nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu và chỉ có thể loại trừ hoàn toàn sau 4 -5 năm nữa nên cần có những chính sách mang tính dài hạn hơn.
“Chính sách cần tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trụ lại được và có khả năng vượt lên sau dịch Covid-19, đặc biệt về đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh mới. Việc này quan trọng không kém việc cứu các doanh nghiệp gặp khó khăn, vì sẽ giúp doanh nghiệp và nền kinh tế sớm vươn lên phục hồi tăng trưởng và bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Điều này cũng giúp các doanh nghiệp tìm cơ hội mới trong bối cảnh mới”, ông Lộc nhấn mạnh.
Ngoài các chính sách, giải pháp hỗ trợ, các doanh nghiệp cũng đề xuất cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách thủ tục hành chính, cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ cho sự phục hồi bền vững. Đây chính là nền tảng căn bản nhất cho sự phục hồi và phát triển của doanh nghiệp.
Nhìn về tương lai, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc điều hành Economica Vietnam cho rằng, đại dịch Covid-19 là dịp để tái cấu trúc lại khu vực doanh nghiệp Việt Nam trong trung và dài hạn. “Nếu tận dụng tốt thì trong vòng 5 năm tới khi nhìn lại, khu vực doanh nghiệp sẽ có một sức cạnh tranh lớn hơn. Những doanh nghiệp không thích ứng nhanh, điều chỉnh mô hình sản xuất kinh doanh chắc chắn sẽ phải rút lui khỏi thị trường, thay vào đó là những khu vực doanh nghiệp mới năng động hơn, quản trị phòng ngừa rủi ro tốt hơn và khả năng cạnh tranh cao hơn”, ông Lê Duy Bình phát biểu.