Doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của nhau: Hợp tác sẽ nâng cao chất lượng
Ông Nguyễn Xuân Sơn |
Ông có nhận xét gì về kết quả chương trình vận động dùng hàng của nhau giữa các tập đoàn, tổng công ty mà Bộ Công Thương triển khai 2 năm qua?
Hợp tác giữa các đơn vị, tập đoàn, tổng công ty Nhà nước qua 2 năm đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các sản phẩm của nhau bao giờ cũng được ưu tiên sử dụng và trong quá trình đó, nếu có những vướng mắc, khó khăn các đơn vị kịp thời bàn bạc, thống nhất để xử lý cùng với các biện pháp chỉ đạo, điều hành chặt chẽ của Bộ.
Đây là giải pháp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh ở các DN của Bộ Công Thương, giúp nhau qua được thời kỳ suy giảm kinh tế, cũng như góp phần hỗ trợ tăng trưởng…
Tôi tin rằng, việc hợp tác của các DN trong Bộ sẽ phát triển mạnh mẽ hơn và các vướng mắc, khó khăn giữa các DN về việc cung ứng dịch vụ cho nhau trong nền kinh tế cơ bản sẽ được tháo gỡ.
Như ở PVN, quá trình sử dụng sản phẩm của DN khác các ông đã gặp khó khăn gì và bàn bạc, tháo gỡ như thế nào?
Chẳng hạn, Tập đoàn Dầu khí có một số sản phẩm cơ bản phục vụ cho các tập đoàn khác như khí cho nhà máy điện, hay điện để bán cho EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) và cung cấp cho nền kinh tế và sản phẩm khác nữa là xăng dầu.
Việc tiêu thụ các sản phẩm này khi thừa, khi thiếu, khi giá thị trường lên xuống… rõ ràng cần các DN phối hợp với nhau để hành động một cách nhịp nhàng, “ăn rơ” với nhau trong việc cung cấp sản phẩm để đảm bảo tính liên tục, kịp thời trong cung ứng, sản phẩm không bị ứ đọng và không thiếu. Đặc biệt, tránh được tình trạng thiếu hàng, sốt giá. Tôi cho rằng, vừa rồi các DN phối hợp với nhau khá đồng bộ.
Ông có kiến nghị gì để các đơn vị dùng hàng của nhau phát huy hiệu quả hơn?
Điều đầu tiên, phải thường xuyên có sự trao đổi, bàn bạc để tháo gỡ khó khăn. Thứ hai, phải có tinh thần hợp tác và tinh thần hợp tác này phải trở thành ý chí và nguyện vọng của DN. Các DN, tập đoàn, tổng công ty Nhà nước là các đơn vị thuộc sở hữu của Nhà nước thì cần phải có sự phối hợp sử dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động, cũng như chất lượng dịch vụ sản phẩm và đấy cũng là nâng cao chất lượng cho nền kinh tế.
Một điểm nữa là cũng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để tạo ra ý thức cho người Việt Nam sử dụng các sản phẩm của DN Việt Nam. Có như vậy mới tăng trưởng được sản xuất, DN hoàn thành nhiệm vụ và nền kinh tế tăng trưởng tốt…
Nếu nói theo hoạt động của các DN thì nên vận động, nhưng nếu đứng ở góc độ sở hữu thì không phải là vận động mà các DNNN, tập đoàn, tổng công ty phải có trách nhiệm và nghĩa vụ làm việc này. Tôi cho rằng, đó mới là điều đúng đắn. Hàng Việt Nam sản xuất được mà các DN cứ nhập khẩu về là không được, chứ không phải chỉ vận động. Nếu trong quá trình kiểm tra giám sát của Bộ Công Thương mà thấy các DN không thực hiện đúng chính sách này thì cần phải sử dụng biện pháp về mặt hành chính.
Đã có giàn khoan dầu dùng thiết kế và lắp ráp bằng sản phẩm của Việt Nam
Cũng có ý kiến cho rằng, DN sử dụng hàng nước ngoài là do hàng trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, giá cả, cũng như mẫu mã, thưa ông?
Nguyên tắc phải đảm bảo tính thị trường về giá cả, chất lượng cũng như chủng loại hàng hoá. Các đơn vị cũng phải đáp ứng được cái tiêu chí này khi cung ứng sản phẩm cho nhau. Tuy nhiên hàng nội tương đương về chất lượng, giá cả và hình thức thì đương nhiên các tập đoàn, tổng công ty phải sử dụng hàng Việt Nam. Còn nếu nó có sự chênh lệch chất lượng thì các tập đoàn cần ngồi với nhau bàn cách để hỗ trợ, tháo gỡ, giảm giá thành cũng như chi phí sản xuất để sản phẩm của Việt Nam nâng cao chất lượng, đủ sức cạnh tranh và thay thế được hàng ngoại nhập.
Cũng có người nói, đến con ốc vít cũng phải đi mua nước ngoài là vì chất lượng không đảm bảo?
Không phải chất lượng không đảm bảo mà cái chính là tiêu chuẩn của sản phẩm. Chẳng hạn như đối với dầu khí, các sản phẩm này phải chịu môi trường nước mặn, gió biển thì cần các nghiên cứu rất chi tiết về mặt kỹ thuật. Nếu bình thường người ta không thể phát hiện ra. Trên đất liền có thể lắp ráp bình thường, nhưng đưa xuống biển nếu không chú ý đến tiêu chuẩn thì sẽ không đảm bảo. Vì vậy, chính sự hợp tác giữa các đơn vị mới tạo điều kiện cho nhau sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng của nhau, với các đơn hàng lâu dài hơn.
Nhiều ý kiến cho rằng, các sản phẩm mà các DN dùng của nhau thời gian qua mới chỉ dừng ở mức giao lưu, phần chính vẫn là dùng sản phẩm nước ngoài?
Chỉ đúng một phần. Hiện sản phẩm xăng dầu của Việt Nam sản xuất ra, các đơn vị phân phối dùng hết, điện dùng hết. Trừ các máy móc thiết bị mà Việt Nam không sản xuất được thì mới đi nhập ngoại. Còn hàng dệt của Việt Nam cũng được ưa chuộng. Hay bảo hiểm dầu khí thì 100% bán cho nhân viên trong ngành và các tập đoàn khác, chứ không có của công ty bảo hiểm nước ngoài nào bán, trừ trường hợp khi quy định vốn điều lệ thì phải thực hiện việc tái bảo hiểm để đảm bảo quản trị rủi ro.
Rất nhiều công trình, không chỉ là công trình nhỏ mà có công trình siêu lớn của dầu khí đã được làm trong nước. Như chúng ta làm được hệ thống các giàn công nghệ và giàn khai thác dầu khí trên biển. Một cái giàn này có thể bằng 1 nhà máy khổng lồ. Ví như giàn khai thác khí mỏ Biển Đông, riêng 1 giàn này là 13 nghìn tấn cũng do người Việt Nam thiết kế, chế tạo, lắp đặt. Tất nhiên, những máy chính vẫn phải mua của các hãng nổi tiếng thế giới, nhưng cơ bản chúng ta đã làm được, thậm chí đã làm được một số đơn hàng chế tạo giàn công nghệ, giàn khai thác dầu trên biển cho nước ngoài…
Xin cảm ơn ông!
Đại diện Bộ Công Thương: Còn nhiều vướng mắc Các tập đoàn, tổng công ty còn gặp nhiều vướng mắc khi ưu tiên sử dụng hàng hóa lẫn nhau nói riêng và sử dụng hàng Việt nói chung. Ví như việc thu xếp nguồn vốn trong nước khó khăn, nguồn vốn Nhà nước hạn hẹp nên một số DN phải vay phần lớn ở nước ngoài, dẫn đến một số trường hợp các tổ chức cho vay yêu cầu nhà thầu hoặc thiết bị hàng hoá phải cung cấp từ nước ngoài. Trong khâu cung ứng, đòi hỏi hàng hóa số lượng, chất lượng đảm bảo thống nhất, tiến độ giao hàng cũng là vướng mắc ở một số DN. Đặc biệt, một số tập đoàn, tổng công ty cần các loại hàng hoá đặc chủng có tiêu chuẩn kỹ thuật cao nhưng trong nước chưa sản xuất được, khiến phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Ông Trần Quang Nghị, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dệt may Việt Nam: Không mua hàng nước ngoài nếu trong nước có Các DN đều của Nhà nước, cùng một chủ sở hữu thì không cần vận động mà bắt buộc phải sử dụng sản phẩm của nhau. Không thể có chuyện hàng hoá trong nước sản xuất được nhưng DN lại cứ mua hàng từ nước ngoài với giá cao, làm tăng chi phí để bắt người tiêu dùng phải chịu. Chúng tôi đề nghị Bộ Công Thương cần có báo cáo khả năng cạnh tranh của từng nhóm hàng hoá trong nội bộ ngành và có so sánh, đánh giá mặt được, mặt hạn chế với các nguyên liệu và sản phẩm nhập khẩu về giá cả, chất lượng… để các tập đoàn chủ động lựa chọn sử dụng. Ông Trần Thanh Hải, Phó vụ trưởng Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương): Cần chiến lược dùng hàng của nhau Cán cân thương mại hiện đang ở mức cân bằng, có một chút xuất siêu nhưng vẫn ở mức bấp bênh do DN sử dụng rất nhiều nguyên liệu nhập khẩu. Nếu tập đoàn đẩy mạnh nguồn nguyên liệu đầu vào trong nước sẽ đảm bảo rất tốt kiềm chế nhập khẩu. Vì vậy, từ cuộc vận động này hình thành chiến lược, kế hoạch để tiến đến các tập đoàn tham gia vào chuỗi cung ứng sâu hơn. Những sản phẩm của tập đoàn này trở thành thành tố không thể thiếu của tập đoàn khác. Ví như ngành hoá dầu sẽ là nguồn nguyên liệu của ngành nhựa. Nhựa sẽ là nguyên liệu chế tạo sợi tổng hợp, sau đó là dệt may... |
Trần Hương thực hiện