Đối tác ngoại: Trong chán, ngoài thèm?
Để nhà đầu tư nước ngoài "mặn mà" trong việc mua DNNN | |
Tránh gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ | |
M&A bất động sản thu hút nhà đầu tư ngoại |
Việc các NH mong muốn nới thêm room cho các nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài trước nay không còn xa lạ. Tuy nhiên, gần đây thị trường xuất hiện xu hướng ngược lại.
Ảnh minh họa |
Techcombank vừa gửi thông báo xin ý kiến cổ đông về việc quản lý tỷ lệ sở hữu đối với cổ đông nước ngoài. Theo đó, NH này xin chấp thuận tạm thời chốt tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài ở mức 0%. Trước đó, LienVietPostBank cũng xin ý kiến cổ đông giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của NĐT nước ngoài tại mức 5% vốn. Động thái này khiến thị trường đặt câu hỏi: NH đang toan tính điều gì, đây có phải chiến lược để khoanh vùng những NĐT tiềm năng?
Thẳng thắn nhìn nhận, một chuyên gia tài chính cho rằng, ở một góc độ nào đó, các NĐT khu vực châu Á thường có ý muốn đầu tư vào các NH Việt Nam nhiều hơn các NĐT phương Tây. Điều này không khó lý giải. Việc một số NH giới hạn số vốn đầu tư ngoại, theo vị này, một phần do họ đã nhìn thấy bài học từ NĐT nước ngoài khi vào NH Việt Nam tạo ra những bất lợi cho NH Việt nhiều hơn là thuận lợi. “Bất lợi” ở đây nên được hiểu rằng, đó là sự va đập khá lớn về tư duy quản trị, quản lý rủi ro… giữa NH Việt với các đối tác phương Tây nhiều hơn NĐT châu Á - có sự tương đồng nhất định về văn hoá.
Các NĐT nước ngoài vào Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc đầu tư tài chính mà còn đầu tư về con người, năng lực… Song quá khứ cũng cho thấy có sự xung đột quyền lợi, quan điểm giữa NĐT nước ngoài và NH nội. Một số nhà băng Việt vẫn còn tình trạng quản lý trên tinh thần “gia đình” trị, lợi ích nhóm… mà điều này trái ngược hoàn toàn với tư duy quản trị DN của đối tác phương Tây. Chính điểm này đã tạo ra những bất đồng nhất định từ phía NĐT nước ngoài với các TCTD Việt Nam.
Trước đây, thường các NĐT ngoại vào Việt Nam khá e dè với việc “bắt tay” NH nội bởi nhiều yếu tố: sự khác biệt về văn hóa, tư duy điều hành, quản lý rủi ro, chất lượng nhân sự không đồng đều… Nhưng hiện nay, dường như đã có sự chuyển dịch khi chính NH nội tỏ ra e ngại với đối tác nước ngoài. Chia sẻ quan điểm của mình, TS-LS. Bùi Quang Tín cũng đưa ra một vài lý do chính, cũng là thực tế khiến NH Việt có thể dẫn tới quyết định giảm phần góp vốn của cổ đông nước ngoài.
Thứ nhất, có những trường hợp đối tác nước ngoài, cụ thể là một số NH nước ngoài tại Việt Nam thể hiện họ ở “chiếu trên” về tài chính, công nghệ, khách hàng… Dù đối tác ngoại nắm không nhiều cổ phần, số lượng khách hàng mà họ kết nối cho đối tác nội cũng không nhiều, nhưng họ lại có những ứng xử không phù hợp với lề lối, thói quen trong vận hành của NH nội.
Thứ hai, đã bắt tay tất yếu phải có những cam kết nhất định. Nhưng những cam kết ban đầu như về nhân sự cấp cao, công nghệ, hay thậm chí là yếu tố khó đong đếm như tâm huyết… thì trong quá trình triển khai lại có những trường hợp các NĐT ngoại không giữ đúng lời hứa. Một nguyên do thứ ba là quá trình phối hợp giữa đối tác ngoại với NH Việt Nam tương đối khó khăn. Sự lệch pha giữa những thành viên trong Ban Tổng giám đốc dễ gây nên những mâu thuẫn, khiến cho “cuộc hôn nhân” ban đầu khá tốt đẹp trở thành sự chịu đựng.
Có phần đồng tình với ý kiến trên, một chuyên gia tài chính - NH khác cũng chia sẻ rằng bất cứ sự hợp tác nào cũng đều phải hài hoà lợi ích của đôi bên, nếu không sẽ rất khó để duy trì lâu dài. Không ít NH nội có xu hướng tìm đối tác trong nước, hay trong khu vực, vì có sự tương đồng về văn hoá, cách thức quản trị, định hướng phát triển trong tương lai. Đặc biệt là tư duy quản trị rủi ro - điểm vô cùng quan trọng ảnh hưởng tới cách thức hợp tác giữa các bên với nhau.
Tuy nhiên vị chuyên gia này cũng nhận thấy mọi sự chỉ có giá trị tương đối. Xét trên một khía cạnh khác, các NH trong nước vẫn muốn có sự góp vốn của các NĐT nước ngoài vì thực tế hiện nay, nhiều NHTM trong nước rất khó trong việc tăng vốn điều lệ của mình.
Ở một luồng suy nghĩ khác, có ý kiến cũng cho rằng việc một số NH giới hạn lại tỷ lệ cho cổ đông nước ngoài là do họ đã đưa vào “tầm ngắm” những đối tác phù hợp, lấy chất lượng hơn số lượng. Trả lời phỏng vấn báo giới lãnh đạo một NHTM chia sẻ: việc NH thu lại tỷ lệ sở hữu của đối tác ngoại là để mình chọn họ và có cơ hội tập trung vào những đối tác chiến lược.
Chưa hẳn đồng tình với suy nghĩ này, TS-LS. Bùi Quang Tín nhận thấy chuyện “mình chọn người ta, hay người ta chọn mình” căn cứ vào điều kiện kinh tế cũng như mục tiêu kinh doanh của các NH với nhau. Ông Tín dẫn chứng: thời gian qua một số NH Việt vẫn có được những đối tác ngoại góp vốn 5 - 10%, thậm chí 15%. Và nhiều nhà băng vẫn đang kiến nghị, mong muốn được nới room của NĐT ngoại lên 40 - 50%.
“Cách đây 5 - 10 năm, người ta chọn mình, lúc đó vị thế NH của mình khác. Còn hiện nay, trong hợp tác kinh doanh thì hai bên cần lẫn nhau, chứ chúng ta không nên nói tới việc cao hay thấp. Có người nói rằng chuyện NĐT ngoại rút vốn về nước vì cảm thấy thị trường của chúng ta rủi ro. Tôi cho rằng cách đánh giá như vậy mang tính chủ quan, không phù hợp với thị trường Việt Nam. Còn dĩ nhiên, vẫn nên có sự chọn lọc các NĐT nước ngoài thay vì như xưa là cỡ nào chúng ta cũng nhận”, chuyên gia này chia sẻ.