Giá của những tổ chức "Quá lớn không thể sụp đổ"
Vào tháng 6, Jamie Dimon phát biểu trước Ủy ban Thượng viện Mỹ là sẽ không có khoản tiền thuế nào bị ảnh hưởng bởi những giao dịch thua lỗ mùa xuân vừa qua tại JPMorgan Chase (JPM). Dimon – Chủ tịch của JPM hàm ý muốn nói đến việc Bộ Tài chính nước này sẽ không phải viết ra các tấm séc để cứu giúp cho ngân hàng này.
Ông đã đúng và có thể sẽ tiếp tục đúng ngay cả khi những thua lỗ của ngân hàng này có thể lên tới 9 tỷ USD. Nhưng các tấm séc không phải là những thứ duy nhất mà chính phủ Mỹ có thể đưa ra để cứu các ngân hàng. Bởi nếu chỉ vì quy mô “quá lớn không thể để sụp đổ” vẫn còn thì chi phí vay vốn thấp sẽ tiếp tục giúp họ “sống khỏe”.
Trụ sở ngân hàng Goldman Sachs tại thành phố New York City
Cuối tháng 6 vừa qua, Chủ tịch FED bang Dallas Richard Fisher thẳng thắn cho biết, trên thị trường đang có các tin đồn là nhiều ngân hàng lớn của Mỹ sẽ tiếp tục được xem là các tổ chức “quá lớn để sụp đổ”. Đó là những định chế tài chính nào? Không nói thì rất nhiều trong số chúng ta đã biết. Ấy là JPM, là Bank of America, Citigroup, Wells Fargo, và Goldman Sachs. Theo số liệu của FED tính đến cuối năm 2011, đây là những ngân hàng đã nắm giữ tới 8,5 nghìn tỷ USD giá trị tài sản, tương đương với 56% nền kinh tế Mỹ.
Ông Fisher cũng chỉ ra, lợi thế này cũng giúp cho “anh cả” trên có được chi phí vay thấp hơn một cách không công bằng. Dù không chỉ đích danh là ngân hàng nào, nhưng một lần nữa chúng ta cũng có thể tự thấy được. Theo một ước tính, trong giai đoạn từ 2007 đến 2010, cái mác “quá lớn để sụp đổ” đã giúp các ngân hàng lớn nhất của Mỹ “tiết kiệm” được tổng cộng khoảng 120 tỷ USD trong chi phí huy động vốn. Đơn cử như Citi tiết kiệm được khoảng 50 tỷ USD; Bank of America khoảng 32 tỷ USD; JPM tiết kiệm được khoảng 10 tỷ USD…
Ước tính này được tờ báo Frederic Schweikhard and Zoe Tsesmelidakis đưa ra cuối tháng 5 vừa qua và được hãng tin Bloomberg trích dẫn lại. Tính toán này dựa trên công cụ kiểm tra tài chính là mô hình Merton. Đây là mô hình dùng để tính mức độ rủi ro tín dụng (credit risk) được Robert Merton (người đạt giải Nobel kinh tế năm 1990 vì đóng góp vào việc xây dựng lý luận chung để nâng cao tính an toàn cho cơ cấu tài sản) đưa ra vào năm 1974. Nhà kinh tế này cho rằng, giá của mỗi khoản cho vay bao gồm 2 thành tố: Một là, thời hạn vay. Trong thời hạn cho vay thì người đi vay hoàn toàn được sử dụng đồng tiền đã vay được (tức là nói về giá trị của khoản cho vay theo thời gian); Thứ hai là, rủi ro là người vay có thể phá sản trước khi tiền được trả lại cho bên chủ nợ (vấn đề bảo hiểm). Nhưng trong trường hợp với các ngân hàng lớn thì yếu tố thứ 2 đã bị xóa bỏ bởi sự “bảo hiểm ngầm” trên của Bộ Tài chính Mỹ.
Tháng 7/2010, Tổng thống Mỹ Obama đã ký đạo luật Dodd-Frank – một đạo luật dài tới trên 2000 trang nhằm tiến hành những cải cách ngành tài chính Mỹ được xem là sâu rộng nhất kể từ thời kỳ Đại suy thoái những năm 1930. Đạo luật đề ra những cách thức mới để giám sát rủi ro trong hệ thống tài chính, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc đóng cửa các công ty tài chính lớn bị thua lỗ; những luật lệ mới cho việc kinh doanh các sản phẩm chứng khoán phái sinh phức tạp – nguồn gốc gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, hay thành lập một cơ quan mới bảo vệ người tiêu dùng tài chính thông qua việc triển khai các tiêu chuẩn an toàn chặt chẽ hơn, như các yêu cầu về vốn, chất lượng tín dụng, tỷ lệ đòn bẩy, quản trị ngân hàng... Với những cải tổ mạnh mẽ như vậy, đạo luật kỳ vọng sẽ duy trì lòng tin của thị trường, nhất là người gửi tiền, đồng thời ngăn ngừa các rủi ro cũng như đảm bảo quá trình phát triển bền vững của hoạt động tài chính ngân hàng, chấm dứt việc dùng tiền nộp thuế của người dân để tung ra các gói cứu trợ.
Mặc dù đạo luật cam kết sẽ không có thêm gói cứu trợ nào nữa nhưng thị trường dường như vẫn ngầm hiểu rằng, trong một tình huống xấu, khi các ngân hàng lớn này rơi vào nguy nan thì việc “đánh thức một hạ nghị nào đó lúc nửa đêm và nói rằng, thế giới đang đến hồi chấm hết nên ông cần giúp đỡ” hay những hành động tương tự như vậy sẽ vẫn có thể xảy ra. Và chính sự nhận thức như vậy giúp cho các ngân hàng lớn tiếp tục hưởng lợi, thậm chí là với cả những ngân hàng vốn đã trải qua những tổn thất trong thời gian vừa qua như JPM. Chính vì thế mà con số tiết kiệm được nhờ chi phí rẻ của những ngân hàng này mới lên mức khủng như thế.
Tuy nhiên, người ta cũng tin rằng, nếu những gã khổng lồ trên không đứng được trên chính đôi chân của mình mà lúc nào cũng phải gắn trước ngực tấm bệ đỡ: “Quá lớn để sụp đổ” thì chẳng chóng thì chày chính họ sẽ phải gánh lấy những quả đắng. Sự kiện ngân hàng Barclays của Anh mới đây bị phạt vì thao túng lãi suất LIBOR trên thị trường liên ngân hàng London hay việc hàng loạt các ngân hàng lớn bị tổ chức đánh giá tín nghiệm Moody's hạ bậc tháng 6 vừa qua cho dù có thể vẫn chưa gây ra tác động gì nhiều đối với các định chế lớn này, nhưng cũng là những hồi chuông cảnh tỉnh. Họ có thể “chết” trên chính những bệ đỡ lâu nay của mình.
Đỗ Lê