Giai đoạn khó khăn của các ngân hàng toàn cầu
Trong khi các ngân hàng đang gánh những khoản nợ có vấn đề sau khi đại dịch đã làm tê liệt thương mại toàn cầu và đóng cửa hàng nghìn doanh nghiệp trên toàn thế giới. Thì nay cuộc xung đột Nga - Ukraine bùng nổ đã đẩy châu Âu đến bờ vực suy thoái và gây ra tổn thất không chỉ với các ngân hàng ở lục địa già mà toàn thế giới. Bởi các doanh nghiệp trên toàn cầu đang phải đối mặt với chi phí sản xuất đang tăng cao, cộng thêm lãi suất toàn cầu cũng đang có xu hướng tăng. Điều đó tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các nhà băng.
“Chiến tranh và tác động của nó đối với lạm phát giá cả là yếu tố thay đổi cuộc chơi và các công ty sẽ chịu tác động mạnh”, Carsten Brzeski - nhà kinh tế tại Ngân hàng ING của Hà Lan cho biết.
Ảnh minh họa |
Điều khiến một số nhà đầu tư lo lắng là các vết nứt đã bắt đầu xuất hiện trong bảng cân đối kế toán ngân hàng, với kết quả cho thấy mức đệm vốn của JP Morgan, Barclays, HSBC, Morgan Stanley, Bank of America, Credit Suisse và Citi đều giảm dần trong ba tháng đầu tiên của năm 2022.
Đợt tăng lãi suất 50 điểm cơ bản lịch sử của Fed hôm 4/5 báo hiệu rằng nền kinh tế lớn nhất thế giới đang lo lắng về lạm phát hơn là tăng trưởng. Ở châu Âu, chi phí đi vay cũng đang diễn biến theo chiều hướng tương tự. NHTW Anh đã tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản lên 1% chỉ sau Fed một ngày cũng để ứng phó với lạm phát. Trong khi theo các nguồn tin nói với Reuters, NHTW châu Âu có thể tăng lãi suất ngay sau tháng 7.
Mặc dù về lý thuyết, lãi suất tăng là tin tốt cho các ngân hàng bởi nó có thể tăng tỷ suất lợi nhuận của họ, nhưng tình hình lại không như vậy. Bởi lãi suất tăng cũng đang buộc các ngân hàng phải siết chặt kiểm soát trong bối cảnh nhiều khách hàng đang phải vật lộn với việc trả nợ.
Tháng trước, giám đốc điều hành JP Morgan Jamie Dimon đã cảnh báo về sự suy thoái kinh tế do chiến tranh và lạm phát tăng vọt, sau khi lợi nhuận quý đầu tiên của ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ lao dốc. JPMorgan được coi như là “chỉ báo” cho kinh tế Mỹ và kết quả kinh doanh kém khả quan của nó là điềm xấu cho các ngân hàng trên toàn thế giới.
“Cuộc suy thoái của những năm 1980 và 1990 kéo theo sự gia tăng lạm phát tương tự đã được trải nghiệm như ngày hôm nay”, Keith Wade - nhà kinh tế trưởng và nhà chiến lược của Schroders cho biết.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự đoán khu vực đồng euro sẽ chỉ tăng trưởng 2,8% trong năm nay so với mức 5,3% của năm 2021; và tăng trưởng dự kiến sẽ ở mức trung bình 2,3% vào năm 2023.
Không chỉ vậy EU hôm 4/5 đã đề xuất các biện pháp trừng phạt cứng rắn nhất đối với Nga, bao gồm lệnh cấm vận dầu mỏ theo từng giai đoạn. Điều đó có thể gây ra những rắc rối mới cho cả bên vay và ngân hàng.
Công ty tư vấn EY tuần trước dự báo 3,4% các khoản vay châu Âu sẽ không trả được trong năm nay và sẽ tiếp tục vào năm 2023. Con số này cao hơn nhiều so với mức 2,4% được ghi nhận vào năm ngoái, mặc dù thấp hơn mức vỡ nợ do hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ khu vực đồng euro. EY cũng dự đoán rằng tăng trưởng cho vay nói chung sẽ chậm lại.
Công ty tái cấu trúc Begbies Traynor cũng dự báo về thời gian ảm đạm sắp tới sau khi báo cáo các công ty Anh trong tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng tăng 19% trong quý đầu năm so với cùng kỳ năm ngoái khi mà các biện pháp cứu trợ Covid bị cắt giảm và chi phí tăng lên.
Ken Orchard - một nhà quản lý quỹ tại T. Rowe Price nói rằng, mặc dù lãi suất tăng thường sẽ tạo cơ hội cho vay, nhưng hiện tại “không phải là thời điểm tốt để bổ sung tín dụng” trong bối cảnh xung đột ở Ukraine và triển vọng tăng trưởng không mấy tươi sáng của Trung Quốc.