Giảm nghèo nhanh và bền vững: Sẽ chỉ là lời nói nếu không có chính sách và tài chính
Mặc dù kỷ lục về giảm nghèo đa chiều của Việt Nam rất ấn tượng, nhưng việc duy trì thành tích này trong trung và dài hạn sẽ đòi hỏi các giải pháp toàn diện và đổi mới để thích ứng tốt hơn với bối cảnh thay đổi nhanh chóng trong nước và toàn cầu. Đó là câu chuyện mà các chuyên gia trong nước và quốc tế chia sẻ tại Lễ công bố Báo cáo Nghèo Đa Chiều 2021 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Ủy ban Dân tộc (UBDT), Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (TCTK-MPI) phối hợp thực hiện, với sự hỗ trợ của Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT) và hợp tác kỹ thuật từ Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (CAF/VASS) vừa diễn ra tại Hà Nội.
"Trong thập kỷ qua, thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam đã rất ấn tượng cho dù được đo lường bởi bất kể phương pháp nào, với tỷ lệ nghèo đa chiều giảm liên tục và đáng kể, từ 18,1% năm 2012 xuống 10,9% năm 2016 và 4,4% năm 2020. Hơn nữa, trong khi 1/10 người nghèo về thu nhập trong năm 2014, nhưng một nửa trong số họ đã thoát nghèo bền vững trong thời kỳ trước đại dịch", ông Nguyễn Thắng, Phó chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Tư vấn kinh tế - xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết.
Tỷ lệ nghèo đa chiều ở nhóm dân tộc thiểu số vẫn còn cao. |
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra tính dễ bị tổn thương và tình trạng bất bình đẳng vẫn là những thách thức đáng kể. Tình trạng nghèo về thu nhập thoáng qua đã tăng lên đáng kể trong đại dịch Covid-19, đặc biệt đối với người di cư và nhóm người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nghèo đói giảm trên diện rộng nhưng tỷ lệ này còn cao ở một số nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn như, tỷ lệ nghèo đa chiều của dân tộc H’Mông vẫn ở mức 45,1% vào năm 2020, mặc dù đã giảm đáng kể trong giai đoạn 2012- 2020.
Báo cáo cũng chỉ ra các kết quả nghèo đa chiều có liên quan chặt chẽ đến những thành tựu tích cực trong việc thúc đẩy việc làm, tăng năng suất lao động, tăng cường dịch vụ xã hội và trợ giúp xã hội. TS. Nguyễn Thắng chỉ ra, tỷ lệ lao động làm công ăn lương có việc làm có năng suất đã tăng nhanh chóng trong thập kỷ qua, tăng từ 65,2% năm 2010 lên 80,2% năm 2014 và gần 90,7% năm 2020. Nhu cầu thúc đẩy việc làm năng suất cao càng cấp thiết khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số. Tăng trưởng lao động từ 1,4% vào năm 2012 đến 2020 chỉ còn tăng 0,2%, thậm chí giai đoạn đại dịch Covid-19 còn giảm. Như vậy, vấn đề tạo việc làm cũng không còn như lúc trước là tạo nhiều việc làm mà là tạo việc làm có năng suất để người lao động và gia đình sống trên ngưỡng nghèo.
Ông Jonathan Pincus, chuyên gia kinh tế cao cấp UDNP phân tích thêm: hiện nay có 55% là lao động hưởng tiền công và tiền lương, năm 1990 con số này là 15%. Để Việt Nam hướng tới nước thu nhập trung bình cao và tiến tới thu nhập cao thì vấn đề xóa đói giảm nghèo trở nên quan trọng hơn và điều này lý giải vì sao chúng ta lại đặt mục tiêu chọn tăng năng suất làm một trong những trụ cột để giảm nghèo đa chiều.
Kênh truyền dẫn giảm nghèo thứ hai mà ông Thắng nhấn mạnh là dịch vụ xã hội. Báo cáo cho thấy giáo dục vẫn phụ thuộc vào gia cảnh. Đặc biệt, mức thu nhập của gia đình và trình độ học vấn của người mẹ chi phối mạnh tới sự phát triển của trẻ trong thời thơ ấu và ảnh hưởng đến tỷ lệ hoàn thành cấp trung học phổ thông. Điều này dẫn đến nghèo đói và bất bình đẳng duy trì qua các thế hệ.
Đặc biệt nhiều chuyên gia đã đồng thuận với phát hiện mang tính gốc rễ của nghèo cũng là thách thức lớn nhất của Việt Nam là lực lượng lao động phi chính thức, không có giao kết hợp đồng. Trong cả thập niên 2011 - 2020 tỷ lệ việc làm phi chính thức chỉ giảm chưa đến 2 điểm % - một mức giảm rất khiêm tốn trong thời gian tương đối dài, hiện đang chiếm 70% lực lượng lao động.
Hơn thế, hiện có khoảng 22,5 triệu người lao động trong độ tuổi từ 35 đến 60 không có bảo hiểm xã hội, chiếm 58,8% tổng việc làm không chính thức và 42,8% tổng việc làm. Với lứa tuổi như vậy, họ khó có thể tham gia bảo hiểm xã hội, tạo nên sức ép cho công cuộc giảm nghèo đa chiều trong tương lai. Thực tế này cũng đòi hỏi trợ giúp xã hội cần được thay đổi căn bản về phương thức thực hiện. Bên cạnh việc chủ động xây dựng chính sách chống chịu các cú sốc, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích hoạt động an sinh xã hội để kịp thời hỗ trợ người dân khi khủng hoảng, cú sốc xảy ra.
Bà Kanni Wignaraja, Trợ lý tổng thư ký Liên hợp quốc, trợ lý Tổng giám đốc UDNP, Giám đốc UNDP Khu vực Thái Bình Dương chỉ ra việc áp dụng tỷ lệ nghèo đa chiều mới làm tăng thêm 10 triệu người được hưởng lợi từ chương trình, chính sách giảm nghèo quốc gia là một nỗ lực trong chính sách công của Việt Nam. Song đây cũng là một thách thức lớn khi chi phí tài chính tiếp cận để cung ứng dịch vụ công cho đối tượng nghèo nhất thường cao hơn 2-3 lần so với người dân thường.
Từ đó bà Kanni Wignaraja chỉ ra cách thức tốt nhất tạo điểm nhấn trong công tác giảm nghèo nhanh và bền vững là nỗ lực đầu tư và xây dựng chính sách cần thiết để khuyến khích và cải thiện việc làm năng suất cao. Trong đó, Việt Nam nên bắt tay ngay xây dựng một hệ sinh thái tạo việc làm năng suất cao gồm: ổn định kinh tế, hội nhập, thúc đẩy thương mại, tăng đầu tư khu vực công và tư, cải thiện cơ sở hạ tầng, áp dụng công nghệ xanh hơn. Bà cũng cho rằng Việt Nam cần mở rộng bảo trợ xã hội, không phải là tạm thời để ứng phó với các cuộc khủng hoảng, mà như một hệ thống thường trực linh hoạt và mở rộng hơn thay vì các chính sách xử lý khủng hoảng tạm thời như hiện nay. "Nên coi an sinh xã hội là khoản đầu tư mà không phải chi phí" bà nói. Đồng thời mở rộng việc sử dụng số hóa trong việc thực hiện, trong kinh tế tri thức, nâng cao hiệu quả và tính minh bạch.
"Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm thực hiện mục tiêu giảm nghèo quốc gia, đã đến lúc ngẫm lại, nhân rộng những bài học thành công. Trong đó đầu tư công nên đóng vai trò tiên phong trong việc phát huy thành công và coi đó là động lực để thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước. Chúng ta nên bắt tay ngay vào thực hiện, nắm bắt cơ hội này để không ai bị bỏ lại phía sau. Nếu không có sắp xếp về chính sách và cơ chế tài chính thì mọi việc chỉ là lời nói thôi", bà Kanni Wignaraja khuyến nghị.