Gỡ khó cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản
Thông tư số 55/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc kiểm tra, chứng nhận chất lượng thực phẩm thủy sản được coi là công cụ hữu ích quản lý chất lượng thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên, thủ tục kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm hàng xuất khẩu tăng quá mức cần thiết trong khi tình hình sản xuất, xuất khẩu thủy sản hiện đang gặp nhiều khó khăn, khiến chi phí của các DN tăng cao.
Với chủ trương gỡ khó cho các DN, các DN xuất khẩu thủy sản đang hy vọng vào sự thay đổi từ phía cơ quan thẩm quyền.
Các DN xuất khẩu thủy sản phải tuân thủ nghiêm Luật ATTP
Ra đời năm 2011, nhưng khi đi vào thực tế, Thông tư 55/2011/TT-BNNPTNT đã cho thấy nhiều bất cập trong cách kiểm tra, chứng nhận chất lượng thực phẩm thủy sản.
Năm 2012, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã có những kiến nghị xem xét lại nội dung của Thông tư sao cho việc kiểm soát an toàn thực phẩm (ATTP) thủy sản xuất khẩu phù hợp hơn với Luật ATTP cũng như các thông lệ quốc tế để tăng sức cạnh tranh của DN trong quá trình hội nhập, đồng thời giảm phát sinh chi phí cho DN. Tuy nhiên, đến giờ, Thông tư vẫn chưa được sửa đổi và trong bản dự thảo sửa đổi, những điều vướng mắc chính của DN vẫn chưa được tháo gỡ.
Theo Thông tư này, việc quy định lấy mẫu bắt buộc để kiểm nghiệm lô hàng làm điều kiện cấp chứng thư (Health Certificate) xuất khẩu bên cạnh việc đánh giá kiểm soát điều kiện sản xuất của nhà máy đã và đang khiến các DN thủy sản Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Phó tổng thư ký VASEP, điều này không chỉ khiến DN phải chịu chi phí trong khi chờ đợi các cơ quan chức năng đưa ra kết quả kiểm tra, kiểm nghiệm mà còn làm giảm sức cạnh tranh của DN.
Theo Cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thủy sản (NAFIQAD), dự thảo đã thay đổi căn bản so với Thông tư 55, là việc chứng nhận sản phẩm xuất khẩu sẽ chủ yếu dựa trên kết quả kiểm tra điều kiện sản xuất, mà không dựa vào kết quả kiểm nghiệm lô hàng trước khi xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong dự thảo, NAFIQAD lại đưa thêm một khái niệm mới, không hề có trong Luật ATTP là “Thẩm tra kết quả kiểm soát mối nguy”. Điều này đồng nghĩa với việc vẫn giữ nguyên tần suất lấy mẫu để kiểm tra lô hàng trước khi cấp chứng thư xuất khẩu như trong Thông tư 55.
Điều đáng nói là việc thẩm tra này vẫn tiến hành theo tỷ lệ số lượng lô hàng xuất khẩu chứ không phải dựa trên điều kiện sản xuất của DN. NAFIQAD không đưa ra những chính sách nào khuyến khích các DN có điều kiện sản xuất tốt, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về ATTP mà các DN phải chấp nhận việc lấy mẫu kiểm tra, kiểm nghiệm như nhau.
Vướng mắc lớn nữa mà trong bản dự thảo đưa ra là quy định “tạm dừng xuất khẩu đối với các cơ sở có quá 03 lô hàng trong 6 tháng bị cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cảnh báo về ATTP”. Theo ông Nguyễn Hoài Nam, thật không công bằng nếu như các DN có lô hàng bị cảnh báo chỉ là thực phẩm không đạt mức quy định của nước nhập khẩu, hoàn toàn không phải là thực phẩm không đạt tiêu chuẩn về ATTP mà DN đã không được xuất khẩu.
Có lẽ do những năm gần đây, Việt Nam vẫn có số cảnh báo cao hơn so với các nước cạnh tranh xung quanh như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia… nên bản dự thảo vẫn thắt chặt việc lấy mẫu kiểm tra cũng như “tạm ngừng xuất khẩu”.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Hoài Nam cho rằng: quy định này mang tính trừng phạt cao, trái với các quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam, Luật ATTP. Quy định này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh của các DN, cũng như đảm bảo việc làm và đời sống của người lao động.
Thực tế, Việt Nam vẫn còn nhiều lô hàng bị cảnh báo liên quan đến dư lượng các hóa chất, kháng sinh cấm và nguyên nhân xuất phát từ khâu nuôi trồng thủy sản. Điển hình như các lô hàng tôm thường xuyên bị các cơ quan Nhật Bản cảnh báo về dư lượng các hóa chất.
Để khắc phục tình trạng này, Tổng cục Thủy sản đã phải hướng dẫn, đưa ra các cách sản xuất để không tồn dư hóa chất, kháng sinh cấm. Như vậy, các cơ quan chức năng không có biện pháp quản lý tốt các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y trong nuôi trồng thủy sản... thì cũng không thể bắt các DN xuất khẩu phải gánh hậu quả.
Trong khi đó, ở nhiều nước như EU, Mỹ, Thái Lan… việc đánh giá chứng nhận và quản lý điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm đều nhấn mạnh đến điều kiện sản xuất ở mỗi “khâu” trong chuỗi sản xuất theo nguyên tắc của HACCP (nhận diện và kiểm soát mối nguy an toàn thực phẩm ở các khẩu).
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, thế giới đã chuyển sang xu hướng quản lý chất lượng ATTP thủy sản theo chuỗi sản xuất, chuyển mạnh từ kiểm soát thành phẩm sang kiểm soát quá trình sản xuất (từ ao nuôi/tàu cá đến bàn ăn). Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn chứng nhận hiện đại như: ASC, BAP, GlobalGAP… đều tập trung và hướng tới việc kiểm soát theo chuỗi sản xuất từ trại giống đến cơ sở chế biến.
Do đó, Nhà nước cần tăng cường kiểm soát theo chuỗi sản xuất, chú trọng vào các khâu trước chế biến như tàu cá, cơ sở sản xuất giống, chợ cá, cảng cá, vùng nuôi… như xu hướng hiện đại mà nhiều nước trên thế giới đang thực hiện.
Một vấn đề nữa trong dự thảo thông tư sửa đổi mà VASEP cho rằng, vẫn chưa phù hợp với Luật ATTP là vấn đề phí và lệ phí. Theo Luật ATTP, phí lấy mẫu kiểm nghiệm thực phẩm để kiểm tra, thanh tra là do cơ quan quyết định việc tiến hành kiểm tra, thanh tra chi trả. Thế nhưng điều này vẫn không được sửa đổi trong bản dự thảo thay thế Thông tư 55. Nếu trong thời gian tới, bản dự thảo này được thông qua và thi hành, chắc chắn những giải pháp cần tháo gỡ khó khăn cho DN vẫn chưa có. Các DN xuất khẩu thủy sản sẽ vẫn gặp không ít khó khăn và tốn kém.
Bích Hồng