Hiện thực hóa giấc mơ Việt Nam trở thành “bếp ăn của thế giới"
Nông nghiệp Việt: Nhìn lại để phát triển | |
Góp phần định hình lại nền nông nghiệp |
TS. Vũ Tiến Lộc phát biểu khai mạc Diễn đàn |
“Căn bệnh trầm kha” của nông nghiệp Việt
Phát biểu tại Diễn đàn “Phát triển hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”, TS. Vũ Tiến Lộc cho biết từ bao đời nay, Việt Nam vốn là đất nước nông nghiệp, “nhất nông nhì sĩ” với khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 68% số người làm việc, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13,96% GDP.
Tuy nhiên, bao đời nay, mô hình sản xuất nhỏ lẻ, kém hiệu quả và thiếu liên kết chuỗi giá trị vẫn luôn là “căn bệnh trầm kha” của nền nông nghiệp nước ta.
Bên cạnh những khó khăn nội tại, theo TS. Vũ Tiến Lộc, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, xuất khẩu nông sản Việt Nam đang bế tắc, những thị trường xuất khẩu lớn như Trung Quốc, EU, Mỹ đóng băng. Cộng thêm tác động kép của hạn hán, xâm nhập mặn và bão lũ, nền nông nghiệp Việt Nam chứng kiến cảnh nông dân thì bị mất mùa, doanh nghiệp phá sản và phải đối mặt với hàng loạt khó khăn trước mắt.
Để giúp doanh nghiệp nông nghiệp vượt qua khó khăn, theo Chủ tịch VCCI, công nghệ cao là con đường tiên quyết.
“Bên cạnh đầu tư công nghệ chế biến, chú trọng thị trường nội địa, ứng dụng công nghệ cao được xem là “thang thuốc” hiệu quả cho tương lai nông nghiệp Việt. Câu chuyện về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhắc đến không chỉ như một xu thế ngắn hạn mà là một hành trình xuyên suốt, liền mạch để thay đổi bộ mặt nền nông nghiệp Việt Nam”, TS. Vũ Tiến Lộc nói.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt cũng đang dần nhận ra tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ cao. Theo Chủ tịch VCCI, trong trồng trọt, công nghệ IOT (Internet vạn vật), Big Data (dữ liệu lớn) bắt đầu được ứng dụng thông qua các sản phẩm công nghệ số như phần mềm cho phép phân tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây, người tiêu dùng có thể truy xuất và theo dõi các thông số này theo thời gian thực…
Những đóng góp của khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp cho thấy việc phát triển sản xuất ứng dụng công nghệ cao là hướng đi đúng, đã và đang tạo động lực mới cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
Vẫn cần lực đẩy từ chính sách
Chủ tịch VCCI thông tin, Chính phủ cũng dành nhiều nguồn lực tạo điều kiện cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng lâu dài cho người sử dụng, tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung đất nông nghiệp theo nguyên tắc thị trường để hình thành nền nông nghiệp hiện đại.
Đặc biệt là những nỗ lực lớn trong công tác tổ chức và phát triển thị trường ở cả trong và ngoài nước. Việt Nam đã và đang tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, cho thấy sự tích cực của Nhà nước trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường cho nông sản Việt Nam. Nông sản Việt đã từng bước xâm nhập vào những thị trường có sức mua lớn, đòi hỏi cao về chất lượng như Nhật Bản, châu Âu, Mỹ, Australia...
“Những chính sách tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp công nghệ cao phát triển đã khẳng định sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước cho nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao”, TS. Vũ Tiến Lộc nói.
Tuy nhiên, cũng theo ông Lộc, trên thực tế, các doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao hay muốn ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp vẫn gặp phải không ít thách thức.
Để khoa học công nghệ thực sự thúc đẩy sự phát triển ngành nông nghiệp, trong thời gian tới, ngành này tiếp tục cần nhận được sự quan tâm của các bộ, ngành, địa phương trong việc hoàn thiện chính sách khuyến khích, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cùng với đó cần sự đồng bộ trong toàn hệ thống để đưa các chính sách vào thực tiễn để thực thi hiệu quả, góp phần đưa nền nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, TS. Vũ Tiến Lộc đánh giá.
Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đồng nghĩa với việc sẽ tạo ra sản lượng nông sản lớn do đó song song với việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực phục vụ sản xuất, các cơ quan quản lý cần hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thị trường cho sản phẩm nông sản. Chỉ khi dự báo được nhu cầu thị trường thì việc tổ chức, quy hoạch sản xuất mới đảm bảo tính cân đối và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người làm nông nghiệp.