Hỗ trợ xử lý các ngân hàng có vấn đề: Cần có quy định cụ thể hơn
"Hoàn thiện khung pháp lý về xử lý ngân hàng thương mại có vấn đề" |
Cuối tuần qua, Viện Chiến lược Ngân hàng (NHNN Việt Nam) phối hợp với Nhóm Nghiên cứu Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ: “Hoàn thiện khung pháp lý về xử lý NHTM có vấn đề” giới thiệu kết quả nghiên cứu của đề tài.
Toàn cảnh hội thảo “Hoàn thiện khung pháp lý về xử lý NHTM có vấn đề” |
Vụ trưởng Vụ Pháp chế Tạ Quang Đôn cho biết, hệ thống pháp luật Việt Nam xử lý NHTM có vấn đề trong thời gian qua đã có cải thiện với nhiều quy định cụ thể, chẳng hạn quy định về thanh tra giám sát ngân hàng, về hỗ trợ thanh khoản, biện pháp xử lý bắt buộc, quy định về tổ chức lại NHTM có vấn đề… Nhất là sau khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD được ban hành đã phân định rõ hơn quy trình thẩm quyền từng cơ quan trong phương án cụ thể…, giúp cho các cơ quan liên quan thuận lợi hơn trong triển khai. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, nhóm đề tài nhận thấy, vẫn còn nhiều tồn tại vướng mắc trong hệ thống pháp luật về xử lý các ngân hàng có vấn đề, như quy định chồng chéo, có quy định chưa rõ ràng, không còn phù hợp với thực tiễn.
Ông Đôn lấy dẫn chứng, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD tạo cơ sở pháp lý để Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tham gia sâu hơn vào tái cơ cấu các TCTD, nhưng luật vẫn chưa xử lý hết được những vấn đề làm sao nâng cao vai trò của BHTG. Việc quy định mức độ tham gia sâu hơn của BHTG vẫn còn chung chung dẫn đến việc tham gia hoạt động tái cơ cấu các TCTD chưa được nhiều dù có những cải thiện nhất định. Vì vậy, Nhóm đề tài đề xuất thời gian tới, cần phải sửa đổi Luật BHTG với những quy định cụ thể hơn để BHTG tham gia sâu hơn không chỉ tái cơ cấu mà còn hỗ trợ NHNN trong quản lý giám sát của các NHTM.
Gợi ý thêm chính sách trong thời gian tới, Nhóm đề tài đề xuất tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD để bổ sung các quy định về biện pháp xử lý NHTM có vấn đề, như thành lập ngân hàng bắc cầu, thành lập quỹ tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước để phục hồi các NHTM có vấn đề. Đối với đề xuất này, ông Đôn chia sẻ thêm, ở các nước việc sử dụng ngân sách Nhà nước hỗ trợ quá trình xử lý các ngân hàng có vấn đề gần như đương nhiên.
Như ở Hàn Quốc không chỉ dành ngân sách lớn mà có cơ chế đặc biệt để xử lý các ngân hàng có vấn đề. Nhưng ở Việt Nam lại không cho phép sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu, tái cơ cấu. Đó là một khó khăn không nhỏ. “Ở các nước trên thế giới, để xử lý các ngân hàng yếu kém không chỉ riêng hệ thống ngân hàng mà là cả hệ thống chính trị vào cuộc. Nếu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng chỉ dựa vào nội lực của ngân hàng khả năng thành công chưa chắc chắn. Vì nội lực của ngân hàng chỉ dựa vào quỹ dự phòng đã trích, từ hoạt động thu nợ…”, ông Đôn bày tỏ quan điểm.
Một đề xuất nữa gỡ khó cho khung pháp lý xử lý các ngân hàng có vấn đề được Nhóm đề tài tiếp tục kiến nghị đó là bổ sung quy định miễn trừ trách nhiệm đối với người tham gia cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt. Nếu không có quy định này, theo ông Đôn, sức ép rủi ro rất lớn dành cho cán bộ NHNN, cán bộ TCTD được cử tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém. “Nếu tái cơ cấu không thành công quy trách nhiệm cán bộ tham gia sẽ tạo rào cản rủi ro pháp lý cho họ. Với tâm lý như vậy, các cán bộ này khó chủ động sáng tạo khi thực hiện nhiệm vụ”, đại diện Nhóm đề tài bày tỏ lo lắng và hy vọng, thời gian tới, quy định này sẽ được bổ sung vào Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD hỗ trợ mạnh cho NHNN cũng như TCTD triển khai tái cơ cấu hiệu quả.
Liên quan đến vấn đề tăng hạn mức chi trả đối với người gửi tiền, Nhóm đề tài cho rằng, cần phải bổ sung quy định về chi trả vượt hạn mức. Trong quá trình xử lý ngân hàng yếu kém, cả QTDND, vấn đề chi trả vượt hạn mức cũng là nhân tố quyết định phương án tái cơ cấu thành công hay không. Nếu không đảm bảo quyền lợi người gửi tiền có thể dẫn tới việc khiếu nại đơn thư tạo áp lực lớn đến TCTD, ban kiểm soát đặc biệt cũng như NHNN. Dù trong luật để ngỏ khả năng áp dụng biện pháp đặc biệt nhưng vì quy định chung chung nên khó nhận được sự đồng thuận của các bộ, ngành khác.
Ngoài ra, Nhóm Nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp quan trọng như: tiếp tục ban hành và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan để thực hiện tốt Nghị quyết số 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu… Đặc biệt, trong ngắn hạn, Nhóm Nghiên cứu đề xuất cần tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Các TCTD sửa đổi, bổ sung năm 2017 và sửa đổi, bổ sung các văn bản chưa phù hợp với Luật Các TCTD; ban hành nghị định của Chính phủ hướng dẫn cơ chế tài chính đối với các TCTD yếu kém.
Là người trong cuộc, ông Ngô Anh Tuấn - Tổng giám đốc OceanBank đánh giá cao các giải pháp mà Nhóm Nghiên cứu đề tài đưa ra và cho biết thêm thực trạng của ngân hàng vẫn đang rất khó khăn do mắc cơ chế. “Dù có nhiều nỗ lực thu hồi nợ có vấn đề, phát triển hoạt động bán lẻ… nhưng hoạt động kinh doanh của ngân hàng chưa có nhiều cải thiện do chưa có biện pháp xử lý căn cơ”, ông Tuấn giãi bày và chia sẻ thêm, kinh nghiệm Nhật Bản đã có một loạt giải pháp căn cơ hỗ trợ xử lý các ngân hàng có vấn đề như NHTW tiếp quản định chế tài chính phá sản, tăng vốn cho ngân hàng lớn, xây dựng khung pháp lý đặc thù, áp dụng cơ chế ngân hàng cầu nối cho ngân hàng khó khăn… là giải pháp rất căn cơ. Và các ngân hàng như OceanBank cũng rất cần có giải pháp căn cơ hỗ trợ cho ngân hàng trong điều kiện hạn chế cả nguồn nhân lực, tài chính.
Thời gian tới, ông Tuấn mong muốn hướng xử lý ngân hàng có vấn đề áp dụng theo Hiệp ước Basel II nhận diện rủi ro sớm, can thiệp sớm và có độ linh hoạt quy trình quản trị nội bộ rõ ràng nhất quán, đảm bảo tính minh bạch, tránh các vấn đề có khả năng ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Đây là trục xuyên suốt trong câu chuyện giải pháp để xử lý các ngân hàng có vấn đề. Việc xử lý các ngân hàng tái cơ cấu phải kịp thời, linh hoạt nếu để lâu ngân hàng hoạt động cầm chừng gia tăng rủi ro cao. “Nếu không có giải pháp hỗ trợ kịp thời ngân hàng hoạt động ngày càng lỗ, ngân sách bỏ ra càng lớn giống như người bệnh không có thuốc chữa kịp thời để lâu bệnh sẽ nặng khó chữa hơn”, ông Tuấn bày tỏ.
Đặc biệt, các đại biểu tham dự hội thảo nhất trí cao với nhận định cho rằng việc xử lý các NHTM có vấn đề, nhất là xử lý nợ xấu cần có sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống kinh tế – chính trị, đặc biệt là vai trò của các bộ, ngành liên quan. Chỉ khi có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị mới có thể triển khai được giải pháp toàn diện để xử lý các NHTM có vấn đề có hiệu quả.