Hồi phục thị trường lao động sau dịch
Doanh nghiệp chật vật tuyển dụng lao động | |
Đẩy mạnh bình đẳng giới trong ngành dệt may, da giày | |
Kết nối doanh nghiệp và người lao động |
Sau dịch “lộ” ra nhiều vấn đề
Dẫn báo cáo “Triển vọng việc làm và xã hội Thế giới – xu hướng năm 2022” của ILO (Xu hướng WESO), bà Trần Thị Lan Anh, Tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, báo cáo chỉ ra sự phục hồi chậm và không chắc chắn của thị trường lao động thế giới. Tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu dự kiến sẽ duy trì cao hơn mức trước Covid-19 ít nhất cho đến năm 2023. Ước tính mức thất nghiệp toàn cầu năm 2022 là 207 triệu người, so với 186 triệu năm 2019. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động toàn cầu năm 2022 dự kiến sẽ vẫn thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với năm 2019.
Còn tại Việt Nam, mặc dù số ca nhiễm Covid-19 gia tăng nhanh tại hầu hết các tỉnh, thành phố nhưng với chiến lược thích ứng an toàn và tăng độ phủ vaccine với tỷ lệ bao phủ vaccine phòng Covid-19 cho người từ 18 tuổi trở lên mũi 2 khoảng 99% và mũi 3 khoảng 50%, thị trường lao động quý I năm 2022 đã dần phục hồi trở lại.
Cần có sự quan tâm nhiều hơn tới lao động nữ |
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý I năm 2022 là 51,2 triệu người, tăng hơn 0,4 triệu người so với quý trước và tăng khoảng 0,2 triệu người so với cùng kỳ năm trước.
Đại diện VCCI nhận định, chính Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết 11/NQ-CP với các giải pháp cụ thể, như hỗ trợ người lao động đã làm cho thị trường lao động quý I/2022 khởi sắc hơn, tiếp nối với thành quả phục hồi đã ghi nhận được ở quý IV/2021.
Tuy rằng tỷ lệ lấp đầy người lao động trong các doanh nghiệp khá cao, song theo bà Lan Anh, để duy trì được lao động ở lại với doanh nghiệp là bài toán cực kỳ khó khăn. Bởi các doanh nghiệp có yêu cầu cao hơn về trình độ lao động. Covid-19 là sức ép đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động, trong khi số người tham gia thị trường lao động là hữu hạn. Trong 2 năm Covid-19 buộc doanh nghiệp phải đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, đồng nghĩa với chất lượng nguồn nhân lực đặt ra cao hơn.
Ngoài ra, Việt Nam đang hướng tới thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, nên vấn đề về kỹ năng nghề cho người lao động là đáng quan tâm, đòi hỏi cần có kế hoạch tổng thể để giải quyết vấn đề này. Bên cạnh đào tạo mới, đào tạo lại cần đào tạo nâng cao cho lao động. Công tác đào tạo sẽ hiệu quả nếu có sự phối hợp tốt giữa doanh nghiệp và người lao động. Các nhà hoạch định chính sách và các đối tác xã hội nên điều chỉnh chương trình giáo dục phù hợp với nhu cầu của khu vực tư nhân cũng như tạo khả năng tuyển dụng bền vững bằng cách thu hẹp khoảng cách về kỹ năng.
Doanh nghiệp muốn nâng cao năng suất nhưng cũng cần tạo thêm việc làm để vực dậy tốt hơn. Đồng thời, thúc đẩy đa dạng hóa các hình thức làm việc trong đó có làm online.
Cần có sự quan tâm nhiều hơn tới lao động nữ
Bà Trần Thị Lan Anh cũng cho rằng, vấn đề đặt ra với các chủ doanh nghiệp trong giai đoạn bình thường mới là phải tận dụng được tối đa nguồn lực lao động hữu hạn. Xoá nhoà đi khoảng cách khác biệt về giới tính, độ tuổi, vùng miền để sử dụng được nguồn nhân lực một cách tối ưu trong bối cảnh mới.
Bà Kathy Mulville, Giám đốc hợp phần Hợp tác doanh nghiệp của Investing in Women cho biết, lao động nam thường ở vị trí quản lý nhiều hơn lao động nữ trong các doanh nghiệp. Trong bối cảnh Covid-19, người lao động bị tác động khá nghiêm trọng về cả vật chất và tinh thần dẫn đến tình trạng lao động rời bỏ công việc hiện tại về quê gây ra sự thiếu hụt lao động nghiêm trọng. Riêng đối với các lao động nữ lại càng thêm khó khăn do bị gia tăng thêm trách nhiệm về mặt chăm sóc gia đình, là một trong những lý do khiến năng suất lao động giảm, bên cạnh yếu tố như tình trạng thiếu thiết bị lao động hay không đảm bảo đủ điều kiện khi làm việc tại nhà. Chính vì vậy, bà Kathy Mulville khuyến nghị, trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần tính đến việc trang bị đầy đủ thiết bị hỗ trợ và truyền thông liên lạc để lao động làm việc tại nhà tốt hơn.
Chia sẻ kinh nghiệm về việc giữ chân lao động, đặc biệt lao động nữ tại Tổng Công ty May 10 nơi có hơn 7.000 lao động, trong đó tỷ lệ nữ lao động là 73%, cán bộ quản lý nữ là 49%. Tổng giám đốc Thân Đức Việt, cho biết, May 10 đã duy trì không mất 1 ngày công nào của người lao động, tăng thu nhập cho người lao động 7,6% trong năm 2021 so với năm trước và năm 2022 sẽ còn tiếp tục tăng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn tập trung vào vấn đề an sinh xã hội như duy trì mô hình có cả trường mầm non, trạm y tế, trường cấp I, cấp II, khu tập thể và trường cao đẳng trong doanh nghiệp. Mô hình này đã trở thành “cứu tinh” cho May 10 vượt qua Covid-19 khi phải hoạt động thích ứng với quy định “3 tại chỗ”, hỗ trợ tích cực cho người lao động.
Còn tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn chia sẻ, EVN đã xây dựng hành trình thúc đẩy bình đẳng giới ở hai giai đoạn. Trong đó, để khắc phục tỷ lệ lao động nữ tại EVN thấp, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật; tăng tỷ lệ nữ quản lý ở các cấp, giai đoạn 2021 – 2025, doanh nghiệp này đặt mục tiêu nâng tỷ lệ nữ cán bộ công nhân viên lao động thêm ít nhất 2%; xây dựng tỷ lệ quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ tại các đơn vị; triển khai thêm các chương trình đào tạo chuyên môn và chương trình cố vấn cho nữ nhân viên. EVN cũng sẽ tăng cường sự tham gia của lao động nữ, với các hỗ trợ cần thiết như phê duyệt chính sách và hỗ trợ tài chính cho các chương trình học bổng và thực tập sinh.