Khai giảng đầu tiên
Ngày ấy, tôi thuộc tốp những giáo viên đầu tiên từ xuôi xung phong lên miền núi dạy học. Sinh viên (sư phạm) mới ra trường, nhiệt huyết còn đầy ắp, đam mê cống hiến, muốn thử thách mình trong môi trường gian khó ở vùng cao. Vậy nên tôi với 2 cô bạn cùng chí hướng mới âm mưu “chống lệnh” của gia đình, không ngồi chờ quyết định bổ nhiệm dưới đồng bằng mà lén ôm hồ sơ xin việc dắt nhau lặn lội lên tận phòng giáo dục huyện H (miền núi) để nộp. Đương nhiên là được hoan nghênh, phân công công tác ngay tắp lự, vì các trường miền núi giáo viên luôn thiếu.
Ba nhà giáo tương lai được phân nhiệm về cùng một trường. Cười nói hỉ hả vì mọi việc đã như ý nguyện. Gia đình có biết chắc cũng “chào thua” trước việc đã rồi. Với lại, quả tình chúng tôi muốn mau có việc làm cũng chỉ để đỡ gánh nặng cơm áo cho gia đình. Bước đầu hừng hực khí thế, vậy nhưng, tới lúc lên phòng nhận quyết định đem về trường nộp mới thấy… hơi run: trường nằm trong thung lũng thấp ba bề là núi vây quanh, vô trường chỉ một con đường duy nhất! Đường lổn nhổn sạn ruồi, đá dăm. Đang mùa nắng nên xe chạy cứ xóc tưng tưng, mù bụi. Trường sở là khoảnh sân đất nện và hai dãy nhà cấp bốn. Nhưng kệ đi, “đâu cần thanh niên có”, đám chúng tôi vốn con nhà “gốc rạ” nên gian khổ kiểu này cũng chẳng phải chuyện gì ghê gớm khiến phải chùn chân…
Vậy nhưng chúng tôi đã lầm. Ấy mới là vùng cao mùa nắng; chưa phải mùa mưa!
***
Năm ấy mưa đến sớm; mới tháng chín trời đã phủ đầu bằng một đợt mưa lớn kéo dài. Mưa kiểu ấy với đồng bằng là chuyện thường, không sao, nhưng với miền núi thì thực sự “có chuyện”. Đúng sáng ngày 5/9, ba cô giáo trẻ trang phục chỉnh tề ra đường từ sớm đón ô tô lên trường dự khai giảng. Khai giảng đầu tiên của đời làm thầy đương nhiên quan trọng lắm. Vậy nên ăn mặc chỉn chu hết cỡ, ngoài áo dài tha thướt, quần lụa, mặt mũi tóc tai chăm chút hệt… cô dâu ngày cưới. Khách đi cùng chuyến (chắc biết chúng tôi là cô giáo) nên nhìn đầy cảm phục. Tự hào ghê! Cứ ríu rít ríu ra cho tới lúc xe chạy chậm lại rồi đột ngột dừng. Mọi người nhao nhác đổ xuống. Gì vậy ta; chưa tới nơi mà?
Ảnh minh họa |
Bước xuống theo chân mọi người, tôi không dám tin vô mắt mình khi thấy chiếc cầu tràn bắc qua con sông N - lối duy nhất lên trường - đã… ngập băng dưới nước! Nước không sâu, nhưng chảy cuồn cuộn, hung hãn. Té ra mưa lớn đầu nguồn gây lũ; nước sông dâng nhanh trong đêm, chớp mắt đã ngập cầu. Xứ núi là vậy, chuyện thường mà, người ta chép miệng bảo nhau. Quay về thôi. Ừ, về…
Hết nói cười nổi, ba cô giáo chỉ biết đứng trân trân nhìn làn nước đục ngầu, mặt như chàm đổ. Xe đang lục đục quay đầu. Bác tài kêu: ai muốn khứ hồi thì lên xe đi tiếp! Nhưng ngày khai giảng đầu tiên, chắc cả hội đồng trường cùng các em học sinh đang ngong ngóng chờ các cô giáo mới miền xuôi. Nhưng nước ngập kiểu này không… có cánh thì làm sao qua?
Đang loay hoay gần như muốn khóc bỗng nghe tiếng gọi ơi ới từ đầu cầu bên kia. Là thầy hiệu trưởng, mừng quá! Hóa ra thầy nghe tin cầu bị ngập lũ, đoán chắc các cô bị kẹt nên bươn bả từ trường chạy ra. “Tới rồi hả? Tốt! Các em cứ đứng yên đó, đợi thầy...”, rồi thầy quảy quả chạy xe vào xóm, lát sau trở lại cùng với ba thanh niên người dân tộc lực lưỡng. Cầm gậy chống dò đường, họ thận trọng lội qua đoạn cầu tràn nước xiết vẻ rất vững chãi, ung dung. “Nào, bây giờ mỗi em kèm một cô giáo lội sang bên này cho thầy!”, nghe xưng hô mới biết ba cậu thanh niên là học trò cũ của thầy hiệu trưởng. Các cô giáo nhìn làn nước xiết, rồi nhìn lại áo quần phấn son trang điểm vẻ ngần ngừ. Nóng ruột, một cậu học trò hồn nhiên lên tiếng, giọng lơ lớ: “Cô giáo sợ ướt thì để tui… ẵm (bồng) qua!”. Câu nói rất thực; nhưng khiến cô giáo mặt đỏ nhừ vì thẹn, hấp tấp cuộn vạt áo dài níu tay anh “vệ sĩ” bước ào luôn xuống nước. Vất vả dò dẫm một hồi ba “vệ sĩ” cũng đưa được ba cô giáo trẻ an toàn qua sông. Lên được tới bờ đường khô cả ba cô đều quần áo ướt mem, phấn son trôi sạch! Dở khóc dở mếu. Không sao; thầy hiệu trưởng cười an ủi; để thầy dắt vô nhà đồng nghiệp tắm rửa, thay đồ…
***
Khai giảng năm đó trường cử hành trễ mất một giờ do sự cố ba cô giáo mới bị kẹt nước lũ.
Kết cục cũng được dự khai giảng; nhưng cô nào cô nấy ngượng nghịu trong mấy bộ đồ… mượn đỡ, không rộng thùng thình cũng cũn cỡn chật bó, rất mất tự nhiên! Nhưng tất cả đều trở nên “không đáng kể” khi hội đồng trường đón các “tân binh” rất đỗi thân ái, nhiệt thành. Kể cả các em học sinh, chúng rần rần vỗ tay hoan hô khi được thầy hiệu trưởng giới thiệu các cô giáo mới. Cảm động chảy nước mắt!
Với tôi, ngày khai giảng đầu tiên của đời làm thầy tuy hơi “biến cố” nhưng đã gây ấn tượng đẹp tới mức mỗi khi nhắc lại chuyện xưa cứ dường như… mới rợi. Cái thuở ban đầu lưu luyến đã cột chặt tôi với ngôi trường xóm núi gần hai mươi năm. Trường giờ to đẹp khang trang. Xóm núi cũng đã thành “phố núi” từ lâu. Cầu tràn bắc qua sông N đã được thay bằng cây cầu chân trụ bê tông cốt thép sừng sững vươn cao. Chuyện “lũ ngập cầu” mỗi mùa mưa gây tắc đường chỉ còn là chuyện một thời xa lắc. Vậy nhưng cứ tới mỗi mùa khai giảng, ký ức thân thương ngày cũ lại hiện về cho tôi thêm một lần chiêm nghiệm lại câu “mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình người ở lại”. Phải; tình người…!